- Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050.
- Các Quy hoạch phân khu: N1, N2, N3, N4, N5, N6, N7, N8, N9, N10, N11, S1, S2, S3, S4, S5, H2-1, H2-2, H2-3, H2-4 (H1-1, H1-2, H1-3, H1-4 tham khảo), GS, GN...
- Các Đồ án Quy hoạch chi tiết mới được duyệt và cập nhật thường xuyên.
- Maps Guest Version: Người sử dụng không đăng ký và đăng nhập tài khoản - Zoom level 15
- Maps Light Version: Người sử dụng có đăng nhập tài khoản - Zoom level 16
- Maps Basic Version: Người sử dụng đã đăng ký tài khoản Basic và đăng nhập -Zoom level 17
- Maps Plus Version: Người sử dụng đã mua tài khoản Plus và đăng nhập - Zoom level 19
- Maps Pro Version: Người sử dụng đã mua tài khoản Pro và đăng nhập -Zoom level 22
Dữ liệu cập nhật tháng 11:
- Quy hoạch chi tiết hai bên tuyến đường Nhật Tân - Nội Bài
- Dự án VinCity Gia Lâm
- Quy hoạch chi tiết Khu đô thị Tây Hồ Tây - Dự án VinCity Tây Mỗi - Đại Mỗ
Nhiều chuyên gia quy hoạch, xây dựng cho rằng để xảy ra tình trạng khu đô thị liên tục thay đổi quy hoạch làm tăng quy mô dân số, xây dựng không đúng quy hoạch là lỗi của cơ quan quản lý.
Mật độ quá dày
Theo Quy hoạch chi tiết hai bên tuyến đường đường Tố Hữu, tổng diện tích đất nghiên cứu khoảng 95,5 ha (954.993 m2), trong đó đất công cộng đơn vị ở có tổng diện tích 2.095 m2, đất ở có tổng diện tích 95.020 m2, còn lại là đất dành cho cây xanh, trường học, khu vui chơi, đất cơ quan, trường đào tạo… Tổng dân số dự kiến 29.326 người.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, để giải quyết bài toán lợi nhuận, nhiều chủ đầu tư đã xây hai bên đường Tố Hữu rất nhiều toà nhà chung cư cao tầng, tận dụng mọi không gian để xây dựng, khiến con đường này luôn trong tình trạng quá tải.
Ông Đào Ngọc Nghiêm - Phó Chủ tịch Hội Quy hoạch và Phát triển đô thị Hà Nội, phân tích việc chủ đầu tư khu đô thị mới liên tục nâng chiều cao toà nhà, điều chỉnh quy hoạch, thay đổi quy mô dân số, diện tích xây dựng phải xem thời điểm duyệt thay đổi quy hoạch. Trong quy định được phép điều chỉnh quy hoạch khi có diễn biến khác về kinh tế xã hội, đặc biệt là quy hoạch chung.
"Đối với Hà Nội, sau khi mở rộng năm 2008 và 2011 đã duyệt quy hoạch chung, vừa rồi kết thúc 2015 có đủ quy hoạch phân khu, việc điều chỉnh quy hoạch có thể xem xét chấp thuận, nhưng phải phù hợp với quy hoạch phân khu, quy hoạch chung của Hà Nội. Tất cả những điều chỉnh trước đó đều phải xem xét lại", ông Nghiêm nói.
Theo ông Nghiêm, Nhà nước đã đổi mới hoàn toàn về phát triển đô thị tại các khu đô thị mới. Trong đó, vấn đề quan trọng là đảm bảo kết cấu hạ tầng (đảm bảo hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội: trường học, nhà trẻ...). Khi đã xác định yếu tố dân số cơ bản nhất của khu đô thị, chủ đầu tư phải đảm bảo về hạ tầng xã hội.
Trong trường hợp điều chỉnh tăng dân số, hạ tầng xã hội phải tăng chứ không giảm đi. Tuy nhiên, tại Hà Nội, dân số tăng đồng nghĩa với hạ tầng xã hội bị thu hẹp lại để nhường chỗ cho xây nhà ở. Câu chuyện khu đô thị Trung Hoà – Nhân Chính và Khu Đoàn ngoại giao mới đây là một điển hình.
Có lợi ích nhóm?
Cũng theo ông Đào Ngọc Nghiêm, việc điều chỉnh quy hoạch không chỉ là cơ quan quản lý đưa ra mà cần phải có ý kiến cộng đồng (tổ chức xã hội, cư dân khu đô thị). "Vậy, chủ đầu tư và nhà quản lý suy nghĩ thế nào về vấn đề này, có sự móc nối nào không?", ông Nghiêm đặt vấn đề.
Ông Nghiêm cho rằng quy hoạch hiện chưa gắn với kế hoạch tổ chức thực hiện. "Có quy hoạch nhưng phải hiểu quy hoạch là định hướng với tầm nhìn dài 10-20 thậm chí 30 năm", ông Nghiêm nói.
Ông Trần Ngọc Hùng, Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam, phân tích trong Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và yêu cầu khống chế mật độ dân số các quận trung tâm và giảm dần đến năm 2050.
Như vậy, mục tiêu là phải hạn chế phát triển dự án mới, hạn chế chiều cao của các tòa chung cư. Thế nhưng, gần đây, các cao ốc lại thi nhau mọc lên, tình trạng tự ý nâng chiều cao cao ốc diễn ra phổ biến, thậm chí ngay ở các khu vực trung tâm thành phố và khu đô thị mới.
"Còn tiếp tục cơ chế xin – cho, khi người xin và người cho đều có lợi và có nhóm lợi ích, dẫn tới tình trạng quá tải. Như vậy là quy hoạch có vấn đề mà xây dựng, tổ chức thực hiện cũng lại có vấn đề. Xét cho cùng, người lãnh đạo của thành phố, của quận về xây dựng phải chịu trách nhiệm", ông Hùng nói.
Ông Hùng nhấn mạnh chính quyền thiếu trách nhiệm, thậm chí buông lỏng quản lý xây dựng theo quy hoạch, doanh nghiệp lại đua nhau chạy theo lợi nhuận mà không thực hiện đúng trách nhiệm của mình.
Nguồn VnMedia.vn
Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh đã khiến quỹ đất dành cho các công trình công cộng, trong đó có đất làm vườn hoa, sân chơi ngày càng thu hẹp, đặc biệt tại khu vực nội đô.
Các chuyên gia cho rằng, Hà Nội cần phải xây dựng chiến lược dài hạn, trong đó gắn quy hoạch cây xanh với xây dựng vườn hoa, sân chơi.
Thiếu những vườn hoa, sân chơi
Khảo sát thực tế tại một số khu nhà tập thể như Trung Liệt (Đống Đa), Quỳnh Mai, 8/3 (Hai Bà Trưng), Thành Công (Ba Đình)... không gian công cộng đều được tận dụng tối đa cho kinh doanh và các hoạt động khác. Trước đây, phần lớn các khu nhà tập thể cũ khi xây dựng đều được thiết kế khu vực sân tập thể để phục vụ cho các hoạt động công cộng. Nhưng đến nay, các sân chơi này nếu không được dùng làm chỗ bán hàng thì lại được tận dụng làm nơi trông giữ phương tiện giao thông cá nhân.
Bà Hà Thị Tuyết (trú tại khu tập thể Quỳnh Mai) chia sẻ, khu tập thể có một sân chơi rộng. Trước đây, trẻ em thường tập trung vui chơi và người già cũng có nơi tập thể dục nhưng đến nay chỉ còn một khoảng không rất hẹp. Phần còn lại cư dân sống trong khu tập thể dùng làm nơi gửi xe. “Chúng tôi nếu muốn đi bộ hay thể dục đều phải băng qua phố Kim Ngưu để sang phần vỉa hè bờ sông mới có chỗ” - bà Hà Thị Tuyết nói.
Một thực tế đáng báo động là không chỉ ở những khu tập thể cũ, mà ngay ở những tòa nhà chung cư cao tầng mới được xây dựng cũng thiếu không gian làm vườn hoa, sân chơi. Các tòa nhà chung cư thậm chí còn được xây dựng trong các tuyến phố, ngõ nhỏ gây ra những áp lực lên hạ tầng. Nhằm tận dụng tối đa diện tích nhỏ của dự án, các chủ đầu tư đã cắt bỏ phần đất cho không gian chung để xây dựng công trình.
Theo khảo sát của Tổ chức TP sống tốt (HealthBridge) Việt Nam, Hà Nội đang thiếu rất nhiều vườn hoa, sân chơi trong các khu vực dân cư, đặc biệt trong khu vực nội thành, đất được dùng làm vườn hoa - sân chơi chỉ chiếm chưa đầy 2% tổng quỹ đất.
Tại Báo cáo Quy hoạch hệ thống cây xanh, công viên, vườn hoa và hồ TP Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Kế hoạch đến năm 2030, diện tích bình quân 2,43m2/người cho dân số 1,8 triệu người của năm 2030 thì hiện nay dân số khoảng 3 triệu người, diện tích công viên, vườn hoa trung bình cho trong các quận nội thành chưa đầy 1,2m2/người. Nhưng trên thực tế, theo số liệu của Chương trình phát triển đô thị tổng thể Thủ đô Hà Nội (HAIDEP) cho thấy diện tích công viên, vườn hoa hiện nay bình quân chỉ còn 0,9m2/người.
Trong khi đó, khung chính sách cho quy hoạch và quản lý cây xanh - công viên đã hình thành rõ, Hà Nội đã có quy hoạch cây xanh với mục đích phát triển một TP xanh, sạch, giảm mức độ ô nhiễm và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân. Đối với khu vực nội thành, quy hoạch này có mục tiêu nhằm tạo ra các công viên đô thị đạt diện tích trung bình 3,92m2/người và các vườn hoa ở cấp đơn vị ở đạt 1m2/người.
"Vườn hoa - sân chơi là một tiện ích công cộng không thể thiếu tại mỗi đô thị, đặc biệt là tại đô thị lớn như Hà Nội. Trước thực trạng đất công cộng ngày càng thu hẹp, TP phải có việc làm thiết thực như huy động đất công sử dụng không hiệu quả trong các khu dân cư để làm vườn hoa, sân chơi; xây dựng những tiêu chí về diện tích và tiện ích công cộng, xã hội đến tận cấp xã, phường để làm cơ sở thực hiện." - Nguyên Tổng Thư ký Hiệp hội các đô thị Việt Nam, TS Vũ Thị Vinh
Tại Hội nghị Tổng kết phong trào thi đua năm 2018; triển khai Kế hoạch kinh tế - xã hội, dự toán thu chi ngân sách, tổng biên chế hành chính, sự nghiệp và phát động phong trào thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 2019 tổ chức hôm 10/12, Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung cho biết: Sau 3 năm triển khai, đến nay, chúng ta đã hoàn thành mục tiêu trồng 1 triệu cây xanh. Tới đây, mỗi năm, Hà Nội sẽ trồng thêm 300.000 cây nữa và hoàn toàn có thể đạt được mục tiêu trồng thêm 600.000 cây vào năm 2020. Theo chuyên gia Nguyễn Thị Hiền - Tổ chức HealthBridge Việt Nam, vườn hoa, sân chơi trong các khu dân cư của Hà Nội đang phải đối diện với nhiều vấn đề, đó là sự thu hẹp của diện tích đất công cộng; sự cạnh tranh giữa việc sử dụng đất cho các tiện ích công cộng với việc sử dụng đất cho các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội; sự cạnh tranh trong sử dụng đất giữa các tiện ích công cộng với nhau. “Hà Nội đang thiếu thông tin hiện trạng đáng tin cậy về hệ thống vườn hoa, sân chơi khu dân cư và về đất công để phục vụ cho mục đích quy hoạch” - chuyên gia Nguyễn Thị Hiền nói.
Tạo cơ chế cho người dân tham gia góp ý quy hoạch
Thời gian gần đây, TP Hà Nội đã thực hiện nhiều chính sách tích cực liên quan đến việc phát triển vườn hoa, sân chơi công cộng. TP đã có văn bản chấp thuận đề xuất của Sở QH - KT về địa điểm đầu tư, xây dựng vườn hoa, sân chơi tại 118 phường, xã, thị trấn với tổng diện tích 59ha, bắt đầu thực hiện từ năm 2016. Đến thời điểm hiện tại, TP có trên 200 địa điểm vườn hoa, sân chơi công cộng, nhưng số lượng vườn hoa - sân chơi tại 4 quận nội thành (Hoàn Kiếm, Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng) chiếm số lượng thấp, khoảng 30 địa điểm. Trong khi đó, hệ số giá đất theo quyết định của UBND TP Hà Nội, đây là những quận có giá đất cao nhất, nên việc đền bù, lấy đất trong khu dân cư cho các công trình công cộng là rất khó khả thi.
Theo KTS Lê Văn Lân - Phó Chủ tịch Hội KTS Hà Nội, Nhà nước đã xây dựng khung pháp lý về quy hoạch và quản lý đô thị, hướng dẫn lập quy hoạch cây xanh đô thị. Nhưng những hướng dẫn về quy hoạch vườn hoa, sân chơi chưa đủ và vẫn thiếu thực tế, khiến chính quyền các đô thị chưa có giải pháp cụ thể cho vấn đề này. “Những hạn chế này là do công tác quản lý đất công còn kém hiệu quả, người dân vẫn chưa được tham gia đầy đủ vào công tác đóng góp ý kiến. Đối với các cơ quan quản lý, việc xây dựng những tiêu chí cụ thể về diện tích và những tiện ích tối thiểu cho các khu vực vườn hoa, sân chơi chưa có” - KTS Lê Văn Lân nói.
Nhiều chuyên gia cho rằng, Hà Nội phải có một đơn vị chịu trách nhiệm quản lý hệ thống thông tin tích hợp chung để thu thập, lưu trữ và chia sẻ thông tin đa ngành một cách thống nhất, trong đó có thông tin về quản lý đất công và vườn hoa, sân chơi. Do thiếu một đơn vị chuyên môn như vậy nên công tác quy hoạch - quản lý sẽ phải đối mặt với việc thiếu thông tin. Trong khi đó, việc phát triển các địa điểm vườn hoa, sân chơi công cộng cần phải có sự ủng hộ, đồng tình từ người dân nhưng do thiếu thông tin cần thiết dẫn đến hệ quả là khi triển khai sẽ gặp những phản hồi tiêu cực.
KTS Trần Tuấn Anh - Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam cho rằng, Luật Quy hoạch đô thị, Luật Nhà ở, Luật Đất đai, Luật Thủ đô... đã có. Nhưng cần đề cập cụ thể hơn về hạ tầng xã hội, trong đó bao gồm nội dung về vườn hoa, sân chơi trong các khu dân cư. Đặc biệt, trong Luật cần phải có cơ chế để tăng cường sự tương tác, tham gia của người dân trong việc đóng góp ý kiến về công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch đô thị.
Cùng quan điểm, chuyên gia Nguyễn Thị Hiền khuyến nghị, Thủ đô nên xây dựng một chương trình nâng cấp đô thị, trong đó mạng lưới các vườn hoa, sân chơi trong các khu dân cư là một bộ phận không thể tách rời. “Hà Nội đang thực hiện rất tốt chương trình phát triển cây xanh đô thị. Để mở rộng và vận hành tốt hệ thống vườn hoa, sân chơi công cộng, Hà Nội nên gắn chặt quy hoạch về phát triển cây xanh với quy hoạch phát triển vườn hoa, sân chơi. Quy hoạch cây xanh cần được bổ sung nội dung liên quan vườn hoa, sân chơi đến tận cấp đơn vị ở” - chuyên gia Nguyễn Thị Hiền chia sẻ.
Theo KTĐT
Nếu như việc định hướng, sắp xếp, phân bố không gian các hoạt động kinh tế, xã hội để sử dụng hiệu quả các nguồn lực phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững là nhiệm vụ mang tầm quốc gia thì việc tổ chức không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị, hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật-xã hội và nhà ở để tạo lập môi trường sống thích hợp cho người dân là nhiệm vụ của các thành phố, đô thị.
Trong những năm qua, được sự định hướng của Chính phủ cũng như các bộ, ngành, Hà Nội đã hạn chế được việc quy hoạch và đầu tư dàn trải, tập trung quy hoạch hạ tầng khung tại “5 cửa ô” để hướng tới xây dựng phát triển hài hòa giữa vùng lõi và ngoại thành.
Điểm nhấn quy hoạch với “chùm” đô thị vệ tinh
Thực hiện Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, Thủ đô Hà Nội đã và đang phát triển theo mô hình “chùm” đô thị, gồm khu vực đô thị trung tâm và năm đô thị vệ tinh.
Đô thị trung tâm là khu vực nội đô hiện tại được phát triển mở rộng về phía Tây-Nam đến đường Vành đai 4; về phía Bắc với khu vực Mê Linh, Đông Anh; phía Đông với khu vực Gia Lâm và Long Biên. Năm đô thị vệ tinh của thành phố bao gồm Hòa Lạc, Sơn Tây, Xuân Mai, Phú Xuyên và Sóc Sơn.
Theo quy hoạch, đô thị trung tâm được phân cách với các đô thị vệ tinh, các thị trấn bằng một hành lang xanh chiếm tới 70% diện tích đất tự nhiên. Mỗi đô thị vệ tinh có chức năng hỗn hợp và đặc thù riêng, hoạt động tương đối độc lập để hỗ trợ và chia sẻ với khu vực đô thị trung tâm về nhà ở, đào tạo, công nghiệp và dịch vụ.
Đánh giá của các chuyên gia kinh tế cho thấy, với việc định hướng quy hoạch trên, Đồ án Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 đã đạt được yêu cầu về phát triển không gian đô thị, tạo điều kiện để phân bổ lại sức sản xuất, phân bổ lại dân cư, cũng như các khu chức năng phù hợp với điều kiện kinh tế, tự nhiên và phù hợp với các yêu cầu phát triển.
Đặc biệt, Hà Nội đã và đang đi theo xu hướng chung của các nước trên thế giới là quy hoạch các đô thị vệ tinh, tạo nên các vành đai xanh, khích lệ tăng trưởng, kéo giãn dân ra khỏi nội đô chật chội.
Theo bà Vũ Thị Vinh, Nguyên Tổng thư ký Hiệp hội Đô thị Việt Nam, sự kết nối giữa đô thị vệ tinh với thành phố trung tâm phải thông qua một hệ thống giao thông hoàn chỉnh như đường bộ cao tốc, đường sắt đô thị. Đây là những tuyến đường trục giao thông quan trọng và nếu thiếu nó thì sự kết nối không thành công.
Hiện tại, theo Quy hoạch giao thông vận tải Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2050 sẽ có nhiều trục đường nối đô thị trung tâm với các đô thị vệ tinh với chiều dài khoảng gần 100km.
Các trục đường này có quy mô mặt cắt ngang từ 40-60m, tối thiểu sáu làn xe cơ giới, bao gồm trục Tây Thăng Long đoạn từ Vành đai 4 tới đô thị vệ tinh Sơn Tây dài khoảng 20km; trục Hồ Tây-Ba Vì đoạn Vành đai 4 tới đô thị vệ tinh Hòa Lạc dài khoảng 25km; trục Hà Đông-Xuân Mai đoạn từ Vành đai 4 tới đô thị vệ tinh Xuân Mai dài khoảng 20km; trục Ngọc Hồi-Phú Xuyên đoạn từ Vành đai 4 tới đô thị vệ tinh Phú Xuyên dài khoảng 25km. Đây sẽ là điều kiện rất quan trọng tạo cho các đô thị vệ tinh phát triển.
Bà Vinh nhìn nhận với định hướng giao thông kể trên sẽ giúp các đô thị vệ tinh trở thành hiện thực, khi đó Hà Nội sẽ hạn chế đáng kể tình trạng ùn tắc giao thông cũng như áp lực đối hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật tại khu đô thị nội đô trung tâm.
Một số chuyên gia kinh tế cũng phân tích, Hà Nội đang đi đúng hướng trong việc quy hoạch phát triển đô thị vệ tinh. Thời gian qua, Hà Nội xuất hiện những “con đường đắt nhất hành tinh” hay “con đường dát vàng.” Thực chất không phải làm một km đường là hết hàng nghìn tỷ đồng mà phần lớn số tiền đó dành cho giải phóng mặt bằng, tái định cư.
Trong khi đó, với số tiền trên, Hà Nội có thể làm được khu đô thị tương đối hoàn chỉnh ở các quận, huyện ngoại thành, từ đó kết nối giao thông đi lại thuận tiện thì chắc chắn người dân sẽ không đổ dồn vào nội thành sinh sống. Nếu thực hiện được điều này, Hà Nội sẽ không còn những ngôi nhà “siêu mỏng, siêu méo,” hệ quả lâu dài của giải phóng mặt bằng, của những con đường nghìn tỷ.
Do vậy, với định hướng quy hoạch khu đô thị vệ tinh ở Hà Nội, các chuyên gia cho rằng, đây là cách làm khôn ngoan, nhằm thu hút người dân từ nội thành ra ngoại thành. Kinh nghiệm từ một số nước cho thấy, mỗi đô thị vệ tinh có chức năng và đặc điểm kinh tế-xã hội khác nhau. Mỗi đô thị vệ tinh phải có một động lực rõ ràng và thực chất, mỗi thành phố phải có chiến lược với những kế hoạch khả thi về tài chính bao gồm: kinh phí để xây dựng các tuyến hạ tầng giao thông khung, kinh phí để xây dựng các đô thị vệ tinh.
Quy hoạch gắn với thu hút nguồn lực
Theo ông Lê Vinh, Giám đốc Sở Quy hoạch-Kiến trúc Hà Nội, năm 2018, sở được Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội giao gần 350 nhiệm vụ và đến nay đã hoàn thành gần 300 nhiệm vụ; trong đó, sở đã hoàn thành và trình thành phố phê duyệt một số đồ án lớn như quy hoạch chi tiết khu đô thị mới Gia Lâm, thiết kế đô thị hai bên tuyến đường Trường Chinh, khu nhà ở xã hội huyện Đông Anh và Hà Đông.
Cùng với việc quy hoạch các đô thị vệ tinh, Hà Nội đã lập danh mục nhiều dự án ưu tiên có tính chất tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội; các dự án trọng tâm, trọng điểm, lập kế hoạch, lộ trình đầu tư, thực hiện đảm bảo phù hợp điều kiện kinh tế, tránh dàn trải. Huy động các nguồn lực và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, tập trung thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ chính, công trình lớn quan trọng về hạ tầng khung như: giao thông, cấp thoát nước, khu-cụm công nghiệp, cấp điện, hạ tầng y tế, giáo dục... đáp ứng các nhu cầu an sinh xã hội; các dự án khoa học công nghệ, xử lý ô nhiễm môi trường và phát triển đô thị.
Với tinh thần đó, Hà Nội đã thu hút các nhà đầu tư xây mới những khu đô thị hiện đại, đồng bộ hoàn chỉnh hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật mang tầm khu vực như Time City, Royal City, Gamuda City, Vinhome Reveside...; nhiều công trình quan trọng cũng được đầu tư từ nhiều nguồn lực khác nhau như Tòa nhà Lotte, Tòa nhà Quốc hội, Nhà ga T2 sân bay Nội Bài...
Đáng chú ý, với hàng loạt các dự án bất động sản đã và đang được triển khai bên ngoài khu vực nội đô như: Splendora, Quốc Oai, Park City, Thanh Hà, Mỗ Lao, Đặng Xá và mới đây nhất là việc đầu tư xây mới 4 triệu m2 nhà ở xã hội, nhà ở cho người thu nhập thấp tại khu đô thị Vin City Gia Lâm, Kim Chung-Đông Anh..., một bộ phận cư dân Hà Nội đang chuyển dịch dần ra vùng ven định cư.
Dù vậy, Giám đốc Sở Quy hoạch-Kiến trúc Hà Nội Lê Vinh cũng thừa nhận quá trình thực hiện công tác quy hoạch của Hà Nội thời gian qua vẫn còn những hạn chế, nhất là về tầm nhìn đặt ra trong từng giai đoạn, dẫn đến phải điều chỉnh trong quá trình lập dự án đầu tư gây bức xúc dư luận xã hội. Bộ mặt kiến trúc đô thị chưa được đồng bộ, khang trang.
Bênh cạnh đó, tiến độ thực hiện các đề án phân khu nội đô còn chậm, số lượng, tỷ lệ phủ kín quy hoạch chi tiết còn thấp. Việc đầu tư xây dựng theo quy hoạch còn hạn chế. Nhiều dự án sử dụng vốn ngân sách tiến độ thực hiện chậm gây lãng phí, thậm chí phải điều chỉnh do không còn phù hợp với quy hoạch cấp trên. Nguyên nhân là thiếu nguồn lực đầu tư, khó khăn giải phóng mặt bằng nên các khu đô thị vệ tinh cũng chưa hình thành và phát triển như mong muốn.
Mới đây, tại buổi làm việc với Sở Quy hoạch-Kiến trúc thành phố, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Hoàng Trung Hải nhấn mạnh quy hoạch bao giờ cũng phải đi trước để dẫn dắt định hướng phát triển kinh tế-xã hội. Điều này yêu cầu Sở Quy hoạch-Kiến trúc Hà Nội cần sớm hoàn thành phê duyệt các đồ án quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết, không để kéo dài.
“Chúng ta mong muốn thành phố có kiến trúc đẹp, hạ tầng đồng bộ thì phải thúc đẩy, hoàn thành sớm các quy hoạch này, nếu không thì không thể phát triển được,” ông Hoàng Trung Hải nói.
Đặc biệt, người đứng đầu Đảng bộ thành phố Hà Nội cũng yêu cầu ngành quy hoạch-kiến trúc phải đầu tư trí tuệ để nghiên cứu sáng kiến, đề xuất các điểm nhấn kiến trúc đô thị cho thành phố bởi thực tế khâu này vẫn còn yếu kém./.
Minh Nghĩa
(TTXVN / Vietnam+)
Hệ thống quy định pháp luật quản lý công trình cao tầng
Sau khi đất nước thống nhất, Nhà nước bắt đầu bãi bỏ chính sách bao cấp về nhà ở, thay vào đó là các chính sách khuyến khích, tạo điều kiện để người dân tự cải thiện nhà ở. Năm 1992 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 118/TTg bãi bỏ chế độ phân phối về nhà ở và đưa tiền phụ cấp về nhà ở vào tiền lương. Cùng với chính sách xóa bỏ bao cấp về nhà ở, Nhà nước triển khai bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước, góp phần tạo nguồn vốn đầu tư phát triển nhà ở và thực hiện chính sách hỗ trợ nhà ở cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách Nhà nước và các đối tượng xã hội như: lực lượng vũ trang, sinh viên, người có công với cách mạng…
Phù hợp với tiến trình phát triển, Nhà nước thông qua Luật Nhà ở để quản lý nhà ở. Năm 2005, Luật Nhà ở ra đời, muộn hai năm so với Luật Đất đai (2003) đã củng cố toàn diện về mặt pháp lý đối với quản lý nhà ở. Nhà nước có kế hoạch phát triển nhà ở trong đó tập trung xây dựng các khu chung cư trong các khu đô thị – là một trong các chiến lược quan trọng trong phát được chuyển hướng thành xây dựng các khu nhà ở với phát triển đồng bộ các công trình hạ tầng xã hội và công trình hạ tầng kỹ thuật được gọi là các khu đô thị mới. Ý tưởng này được hình thành từ giữa thập niên 90 mà khởi đầu bằng KĐT Linh Đàm tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh là KĐT Phú Mỹ Hưng. Ngày 15/06/1997 khu đô thị mới Linh Đàm chính thức được khởi công xây dựng. Tổng Công ty đầu tư và phát triển nhà và đô thị (HUD) thuộc Bộ Xây dựng là đơn vị doanh nghiệp nhà nước đầu tiên thực hiện ý tưởng này.
Ngày 05/01/2006, sau 9 năm thực hiện các dự án thí điểm khu đô thị mới, Chính phủ ban hành Nghị định 02/2006/NĐ-CP về Quy chế khu đô thị mới, chính thức pháp quy hóa việc phát triển đô thị theo các dự án khu đô thị mới mà chủ yếu là xây dựng nhà chung cư.
Trong giai đoạn hiện nay, cùng với sự phát triển kinh tế, xu thế nhà cao tầng đang nở rộ tại các đô thị Việt Nam. Qui mô cũng như số tầng cao ngày càng tăng. Tuy nhiên, công tác quy hoạch và quản lý đô thị của Việt Nam còn nhiều bất cập. Số lượng những khu đô thị mới đạt chuẩn còn rất hạn chế, trong khi đó lại xuất hiện nhiều dự án nhà cao tầng vì lợi ích kinh tế, xây chen lấn chất tải lên hạ tầng kỹ thuật hiện có…. Dịch vụ tiện ích trong các khu nhà ở cao tầng cũng là một vấn đề cần bàn đến. Chất lượng kết cấu hạ tầng tại các đô thị vẫn còn thấp dẫn đến tình trạng ùn tắc giao thông diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Vấn đề về cấp thoát nước, phòng cháy chữa cháy, cứu hộ, thoát người khi có sự cố cũng là một vấn đề nhức nhối đối với nhà ở cao tầng tại các đô thị Việt Nam trong những năm gần đây.
Bên cạnh một số ít các nhà ở cao tầng thành công, còn rất nhiều công trình được xây lên thuần túy chạy theo lợi nhuận, không chú trọng đến chất lượng sống, môi trường vi khí hậu, trở thành những cỗ máy tiêu thụ năng lượng đáng báo động. Nhiều nhà ở cao tầng tại các đô thị Việt Nam chưa đáp ứng đầy đủ sự đi lại, giao lưu trong cộng đồng, các hoạt động giải trí, thể thao… khiến cho con người sống trong đó có cảm giác thiếu thốn, ngột ngạt… Vấn đề vi khí hậu cho các căn hộ chưa được giải quyết tốt, khoảng cách giữa con người với thiên nhiên ngày càng xa cách bởi không gian xanh hiếm hoi dần bị lấp đầy bởi kính và bê tông.
Về chính sách phát triển nhà ở, theo quyết định số 2127/QĐ-TTg ngày 30/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược nhà ở quốc gia đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030, tỷ lệ nhà ở chung cư trong các dự án phát triển nhà ở tại các đô thị loại đặc biệt (Hà Nội và TP Hồ Chí Minh) đạt trên 90%, đô thị từ loại 1 đến loại 2 đạt trên 60%, đô thị loại 3 đạt trên 40% tổng số đơn vị nhà ở xây dựng mới.
Theo các khái niệm hiện nay về nhà cao tầng và nhà ở chung cư thì phần lớn nhà cao tầng hiện nay là nhà ở chung cư, với các chức năng khác nhau. Nếu so sánh với hệ thống phân loại tại các nước phát triển như Singapore, Hoa Kỳ sẽ bao gồm nhà ở cao tầng (Residence) và các loại công trình cao tầng phi nhà ở hoặc chức năng hỗn hợp (Non – Residence).
Trên cơ sở đó, các địa phương ban hành quyết định riêng, cụ thể hóa các mục tiêu theo quyết định số 2127/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Hà Nội thông qua Nghị quyết số 05/2013/NQ-HĐND ngày 12/07/2013 của Hội đồng nhân dân Thành phố về Chương trình phát triển nhà ở giai đoạn 2012-2020 và định hướng đến năm 2030.
Trên cơ sở Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, chính quyền Thành phố triển khai xây dựng nhà ở trong đó có nhà ở cao tầng và các loại nhà có chức năng sử dụng khác.
Hiện nay, nhà ở cao tầng đã bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều hình thức phong phú đa dạng. Từ các chủ đầu tư với các phương án thiết kế trong nước đến ngoài nước, từ các doanh nghiệp nhà nước đến doanh nghiệp tư nhân đầu tư… Chất lượng xây dựng cũng có sự thay đổi phụ thuộc vào tiêu chuẩn thiết kế được sử dụng và các nhà thầu xây dựng.
Nội dung quy định pháp luật về quản lý công trình cao tầng nội đô
Về khái niệm nhà ở cao tầng, theo TCXDVN 323:2004 “Nhà ở cao tầng – Tiêu chuẩn thiết kế” nhà ở cao tầng là loại nhà ở, căn hộ có chiều cao từ 9 đến 40 tầng (trên 40 tầng thường gọi là nhà chọc trời). QCVN 06:2010/BXD về an toàn cháy cho nhà và công trình phân định nhà cao tầng thuộc nhóm nguy hiểm cháy theo công năng có chiều cao lớn hơn 50m và 70m phải có giải pháp riêng được cơ quan PCCC thẩm định phê duyệt. Đầu năm 2013, Bộ Xây dựng ra Quyết định 212 hủy bỏ 169 tiêu chuẩn xây dựng trong đó có TCXDVN 323:2004 “Nhà ở cao tầng – Tiêu chuẩn thiết kế”, chỉ giữ lại 20 tiêu chuẩn được cho là phù hợp trong giai đoạn hiện nay, đến nay vẫn chưa có tiêu chuẩn thay thế.
Về khái niệm nhà chung cư, QCVN 03:2012/BXD quy định là nhà ở hai tầng trở lên có lối đi, cầu thang và hệ thống công trình hạ tầng sử dụng chung cho nhiều căn hộ gia đình, cá nhân. Nhà ở chung cư thực tế thường là nhà cao hơn 9 tầng thuộc loại nhà ở cao tầng.
Nhà cao tầng được xây dựng lồng ghép trong kế hoạch phát triển nhà ở (theo số m2 sàn được cấp phép xây dựng), bị khống chế về chiều cao theo các chỉ tiêu và tiêu chí của QCXDVN như MXD, HSDĐ, tầng cao, khoảng lùi v.v… Tuy nhiên nhà cao tầng không được thống kê và phân loại riêng, nó được xây dựng theo quy trình đầu tư xây dựng cơ bản thông thường tuân theo quy định pháp luật về quy hoạch, kiến trúc của Trung ương mà quan trọng nhất là quy chuẩn xây dựng Việt Nam về quy hoạch xây dựng và các quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc của địa phương.
Tại Hà Nội, trước khi Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 1259/QĐ-TTg ngày 26/7/2011 phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2050, năm 1998 Thủ tướng đã ký Quyết định 108/1998/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2020 đã có định hướng chung về kiến trúc cảnh quan và quy hoạch sử dụng đất.
Tuy nhiên, trong khoảng thời gian đó, xây dựng nhà cao tầng đã trở thành vấn đề nổi cộm tại khu vực nội đô thành phố do các vấn đề về quá tải hạ tầng đô thị, hạ tầng xã hội và ùn tắc giao thông.
Chính phủ đã có chỉ đạo sát sao vấn đề này. Trong giai đoạn nghiên cứu lập đồ án quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội, Văn phòng Chính phủ đã ra Thông báo số 348/TB-VPCP ngày 9/12/2009 thông báo ý kiến kết luận của Thủ tướng Chính phủ về đồ án Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội và Thông báo 202/TB-VPCP vào ngày 19/7/2010 truyền đạt ý kiến của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại cuộc họp thường trực Chính phủ về việc xây dựng công trình cao tầng trong 04 quận nội thành, theo đó xây dựng nhà cao tầng phải theo các nguyên tắc sau:
– Xây dựng nhà cao tầng phải được giám sát chặt chẽ theo nguyên tắc và quan điểm quản lý không gian: tuân theo quy chuẩn quy hoạch xây dựng; quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị bảo đảm phù hợp với quy hoạch chi tiết xây dựng, phù hợp điều kiện hạ tầng kiến trúc và hạ tầng xã hội trong khu vực.
– Đối với các dự án đã được Thành phố chấp thuận chủ trương đầu tư và phê duyệt quy hoạch trước ngày 09/12/2009 được xem xét và quyết định theo thẩm quyền.
Trên cơ sở ý kiến của Thủ tướng Chính phủ, Sở QHKT Hà Nội đã phân loại dự án tính tới thời điểm trước ngày 9/12/2009; từ ngày 9/12/2009 đến ngày 31/12/2009 và các dự án sau thời điểm trên dựa trên bản đồ phân vùng kiểm soát. Phân vùng kiểm soát được chia thành các vùng: vùng không xây dựng cao tầng, vùng kiểm soát đặc biệt và vùng phát triển hạn chế. Các vùng này được xác định đối với các tuyến phố cụ thể.
Để quản lý kiến trúc cảnh quan khu vực nội đô lịch sử, Hà Nội được phân chia thành 7 khu vực từ A1 – A7:
A1: khu trung tâm chính trị Ba Đình
A2: khu hoàng thành Thăng Long
A3: khu phố cổ
A4: khu phố cũ
A5: khu vực Hồ Gươm và phụ cận
A6: khu vực Hồ Tây và phụ cận
A7: khu hạn chế phát triển (bao gồm các chung cư cũ).
– Ngày 24/10/2013, TP Hà Nội ban hành Quyết định số 6398/2014/QĐ-UBND Quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc khu phố cổ Hà Nội;
– Ngày 12/9/2014, TP Hà Nội ban hành Quyết định số 70/2014/QĐ-UBND Quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc chung TP Hà Nội;
– Ngày 13/8/2015, TP Hà Nội ban hành Quyết định số 24/2015/QĐ-UBND Quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc khu phố cũ Hà Nội.
Các Quyết định trên về cơ bản là quản lý quy hoạch kiến trúc chung Thành phố, trong đó có quản lý, kiểm soát xây dựng nhà cao tầng. Các quyết định chỉ rõ MXD, HSDĐ, và tầng cao cho từng ô phố.
Trước khi có các quyết định trên, UBND TP Hà Nội đã phê duyệt quy hoạch chi tiết các quận nội thành Thành phố, đó là:
– Quyết định số 96/2000/QĐ-UB ngày 07/11/2000 phê duyệt quy hoạch chi tiết quận Hoàn Kiếm;
– Quyết định số 68/2000/QĐ-UB ngày 14/07/2000 phê duyệt quy hoạch chi tiết quận Ba Đình;
– Quyết định số 32/2000/QĐ-UB ngày 03/04/2000 phê duyệt quy hoạch chi tiết quận Đống Đa;
– Quyết định số 16/2000/QĐ-UB ngày 14/02/2000 phê duyệt quy hoạch chi tiết quận Hai Bà Trưng.
Ngoài ra, khu vực Hồ Gươm và vùng phụ cận phải tuân theo các Quyết định số 448 BXD/KT-QH ngày 03/08/1996 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng phê duyệt quy hoạch chi tiết khu vực Hồ Gươm và phụ cận; Điều lệ quản lý xây dựng theo quy hoạch chi tiết khu vực Hồ Gươm và phụ cận số 45/QĐ-UB ngày 06/01/1997; Quyết định số 45/1999/QĐ-UB ngày 04/061999 quy định quản lý bảo tồn khu phố cổ.
Tuy nhiên, thống kê số lượng các dự án xây dựng công trình cao tầng, có thể thấy số lượng các dự án xây dựng nhà cao tầng nằm tại khu phố cũ, phố cổ là khá nhiều (khu vực nội đô lịch sử). Với các dự án nhà ở có thể tính được thông qua việc tăng dân số, đối với những dự án có các chức năng khác, nhất là các trung tâm thương mại khó tính được dân số cụ thể, thực tế những dự án loại này thường kéo theo lượng dân cư lớn và khó kiểm soát.
Trước tình hình trên, để cụ thể hóa việc quản lý xây dựng các công trình cao tầng trong khu vực nội đô lịch sử theo đồ án quy hoạch chung xây dựng thủ đô Hà Nội có hiệu lực về mặt pháp lý, ngày 07/04/2016 UBND Thành phố Hà Nội đã ký Quyết định số 11/2016/QĐ-UBND ban hành Quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc công trình cao tầng trong khu vực nội đô lịch sử. Quy chế có một số nguyên tắc sau:
– Cho phép nghiên cứu xây dựng công trình cao tầng tại các vị trí: 2 bên đường vành đai, tuyến phố hướng tâm, điểm nhấn đô thị.
– Cho phép nghiên cứu xây dựng công trình cao tầng theo hướng giảm dần tầng cao từ đường vành đai 2 vào trung tâm Thành phố.
Như vậy trước và sau khi Quyết định 11/2016/QĐ-UBND của UBND Thành phố Hà Nội ra đời, tình hình xây dựng nhà cao tầng vẫn diễn biến phức tạp, rất nhiều dự án xây dựng trong khu vực nội đô lịch sử bao gồm 04 quận nội thành cũ với các chức năng văn phòng, thương mại, chức năng hỗn hợp, tuy nhiên đã không tính toán đúng chỉ tiêu dân số, chỉ tiêu diện tích sàn và một số chỉ tiêu khác nên nhiều dự án hiện nay tuy đã có đầy đủ giấy phép nhưng Thành phố tạm dừng triển khai ví dụ như dự án D’ San Raffles địa chỉ 22 – 24 phố Hàng Bài Hoàn Kiếm, khách sạn Oriental Luxury 22 – 32 Lê Thái Tổ, Hoàn Kiếm.
Nhiều khu chung cư cao tầng được cấp phép xây dựng vi phạm quy định hiện hành về quy mô dân số, chiều cao hoặc quy chuẩn tiêu chuẩn về an toàn phòng cháy chữa cháy như các khu chung cư 148 Giảng Võ, khu chung cư Mường Thanh,… một số tuyến đường dày đặc nhà cao tầng như tuyến đường Lê Văn Lương, Tố Hữu.
Hoàn thiện hệ thống pháp lý quản lý công trình cao tầng khu vực nội đô
Qua điều tra, đánh giá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến xây dựng nhà cao tầng, có thể nhận thấy hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để điều tiết xây dựng phát triển nhà cao tầng nhiều nhưng thiếu, bởi sự phức tạp liên ngành liên quan đến nhiều lĩnh vực khác như đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đất đai nhà ở và quy hoạch đô thị, các tiêu chuẩn – quy chuẩn v.v…Tuy nhiên, trong nhóm tiêu chuẩn – quy chuẩn, tiêu chuẩn 323 về xây dựng nhà cao tầng là một trong số những tiêu chuẩn quan trọng liên quan chặt chẽ tới xây dựng nhà cao tầng đã bị hủy bỏ và hiện nay chưa có tiêu chuẩn thay thế. Trong tiêu chuẩn có định nghĩa thế nào là nhà cao tầng? Đây là một khoảng trống pháp lý vì cho đến thời điểm hiện tại Việt Nam không có định nghĩa rõ ràng về nhà ở cao tầng.
Quy chuẩn xây dựng Việt Nam QCXDVN 01:2008/BXD là quy chuẩn quan trọng nhất liên quan đến kiểm soát phát triển nhà cao tầng, trong đó có quy chuẩn về mật độ xây dựng, tầng cao, giao thông, bãi đỗ xe v.v… Tuy nhiên QCXDVN 01:2008/BXD đã không còn hệ số sử dụng đất, các quy định bắt buộc về mật độ dân số thì không rõ, điều này đặt ra những kẽ hở luật pháp khi thực hiện xây dựng các công trình cao tầng sau này.
Hiện nay, thực tế cho thấy hiện tượng “bùng nổ” xây dựng các tổ hợp cao tầng hỗn hợp tại khu vực trung tâm nội đô lịch sử các đô thị. Tuy vậy, đây là loại hình công trình quy mô lớn có mức độ tập trung người sử dụng cao (đặc biệt là tại các giờ cao điểm), là một trong những nguyên nhân gia tăng áp lực lên hệ thống hạ tầng giao thông đô thị. Hệ thống văn bản pháp luật, quy chuẩn – tiêu chuẩn còn chưa đề cập rõ các vấn đề trên. Do vậy cần có thêm các nghiên cứu tính toán quy định rõ các chỉ tiêu – tiêu chí với loại hình công trình cao tầng này.
Cần hoàn thiện hệ thống các tiêu chí – chỉ tiêu quản lý xây dựng công trình cao tầng nội đô trên cơ sở tính toán và định vị rõ khả năng chịu tải của hệ thống giao thông đô thị với từng khu vực cấp phép. Kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển đi trước cho thấy, quy định bắt buộc thực hiện nội dung Đánh giá tác động giao thông trong các quy trình quản lý cấp phép công trình cao tầng khu vực nội đô đã mang lại nhiều hiệu quả tích cực đối với sự phát triển ổn định và bền vững của đô thị./.
TS Lý Văn Vinh – Viện Kiến trúc Quốc gia
Việc phát triển đường sắt đô thị (UMRT) ở các đô thị lớn, đang có tốc độ đô thị hóa cao là hướng đi tất yếu. Hướng tuyến, vị trí của các nhà ga là vấn đề mang tính chất quyết định không chỉ ở khía cạnh giao thông mà còn tác động, chi phối đến việc phát triển đô thị mới, hay tái thiết các khu vực hiện hữu. Đối với khu “Trung tâm lịch sử” của Hà Nội bao gồm: Khu vực Hồ Gươm, Khu phố Cổ, Khu phố Pháp, Khu vực Ba Đình, việc nghiên cứu còn đòi hỏi sự hiểu biết sâu về lịch sử đô thị hóa và vấn đề bảo tồn phát huy giá trị di sản đô thị.
Lịch sử phát triển mạng lưới đường sắt ở Thủ đô Hà Nội bắt đầu từ thời Pháp thuộc với việc hình thành tuyến đường sắt Bắc-Nam và mạng lưới tàu điện bánh sắt một cách hoàn chỉnh.
– Tuyến đường sắt quốc gia, quốc tế được đánh giá là một trong những sự kiện đặc biệt quan trọng trong việc phát triển đất nước. Đối với Hà Nội, Ga Hàng Cỏ – nhà ga trung tâm hình thành năm 1902 trên tuyến đường sắt này có thể coi là yếu tố thúc đẩy quá trình đô thị hóa thông qua các hoạt động giao thương.
– Mạng lưới tàu điện bánh sắt thời Pháp thuộc cũng là một đặc trưng của Thủ đô trong lịch sử, không chỉ là một ký ức đô thị mà còn có rất nhiều đặc điểm ở khía cạnh quy hoạch xây dựng – giao thông là bài học kinh nghiệm đáng trân trọng:
Mạng lưới tàu điện hình sao theo các tuyến đường bộ hướng tâm liên kết nội thành với ngoại thị; kết nối các khu vực thị dân với các trung tâm công cộng lớn: chợ Đồng Xuân, Hàng Da, chợ Hôm, chợ Mơ, chợ Bưởi, chợ Dừa, Ngọc Hà, bệnh viện Bạch Mai, nhà thương Saint Paul, Thái Hà… và với Ga Hàng Cỏ.
Đặc biệt các tuyến tàu điện quy về một mối ở bến đầu mối phía Bắc Hồ Gươm là một trong những thủ pháp quy hoạch góp phần làm nên sức cuốn hút đặc biệt – vị thế mang tính đại diện cho đô thị thủ đô của khu vực Hồ Gươm.
So sánh quy hoạch hệ thống đường sắt Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 với quy hoạch mạng lưới đường sắt thời Pháp thuộc có nhiều điểm trùng lặp (xem hình) về hướng tuyến. Cụ thể:
– Tuyến đường sắt quốc gia – quốc tế và tuyến UMRT số 1 trùng khớp hoàn toàn với tuyến đường sắt và tuyến tàu điện từ Ga Hà Nội – Bạch Mai từ thời Pháp thuộc.
– Hướng tuyến UMRT số 2 đi ngầm cơ bản trùng khớp với tuyến tàu điện Bưởi – Thụy Khuê – Quán Thánh – Đồng Xuân – Bờ Hồ – Bạch Mai và đoạn Tây Sơn – Nguyễn Trãi.
– Tuyến số 2A cũng trùng khớp với tàu điện từ Nguyễn Trãi – Thanh Xuân – Hà Đông.
– Tuyến UMRT số 3 trùng khớp với tàu điện cũ đoạn Cầu Giấy – Kim Mã.
Từ so sánh sự trùng lặp nêu trên có thể thấy:
– Việc kế thừa kinh nghiệm phát triển trong lịch sử không hoàn toàn ngẫu nhiên, bởi tính khoa học của hướng tuyến, vị trí các tuyến đường sắt thời kỳ nào cũng phải dựa vào yếu tố đô thị và kỹ thuật. Trong đó, yếu tố đô thị đóng vai trò quyết định.
– Mạng lưới UMRT quy hoạch trong khu trung tâm lịch sử dù cơ bản vẫn hướng tâm nhưng không tập trung ở đầu mối Hồ Gươm như các tuyến tàu điện cũ mà tạo thành các lưới phân tán. Phải chăng phù hợp với dạng thức đa cực, đa trung tâm của đô thị hiện đại? Dạng thức này có phù hợp với trạng thái đô thị lịch sử trong tương lai hay không? Đây là vấn đề cần có lời giải đáp.
Các đô thị có sự chồng lớp không gian của các thời kỳ lịch sử, việc xây dựng các tuyến UMRT đi ngầm hay đi nổi, thường rất khó khăn, bởi sự cần thiết phải bảo tồn các công trình di sản. Tuyến đi trên cầu cạn có nguy cơ phá vỡ không gian kiến trúc cảnh quan đô thị lịch sử. Tuyến chạy trong các tunnel ngầm có nguy cơ ảnh hưởng đến nền móng, sự an toàn của các công trình di sản bên trên; cá biệt khi thi công việc gặp phải các di tích nằm dưới mặt đất sẽ khiến việc ngưng trệ tiến độ xây dựng và thay đổi phương án nếu cần thiết phải khai quật, bảo tồn.
Với khu trung tâm lịch sử Hà Nội, nhìn nhận theo dòng thời gian, “tuổi đô thị” của khu vực Ba Đình lâu đời hơn cả, sau đó lần lượt đến Khu phố Cổ, Khu vực Hồ Gươm rồi mới đến khu phố thời thuộc địa.
Như vậy, có thể thấy các tuyến UMRT số 1 và số 3, ít ảnh hưởng đến các khu đô thị lịch sử. Tuyến UMRT số 2 có nhiều ảnh hưởng, do đi ngầm qua cả 3 khu vực thuộc trung tâm lịch sử Hà Nội.
Trong quá trình nghiên cứu, tuyến UMRT số 2 ban đầu được thiết kế trên tuyến đường Phan Đình Phùng sau này đã phải chuyển vị trí sang đường Quán Thánh. Dù việc chuyển đổi vị trí gây tốn kém rất nhiều do phải bố trí 2 tuyến tunnel chồng lên nhau, do đường Quán Thánh có chiều rộng hẹp hơn so với đường Phan Đình Phùng. Việc di tuyển ở đoạn tuyến này, ngoài vấn đề về quốc phòng – an ninh, còn nhằm bảo vệ các di sản còn lại của Thành Cổ Hà Nội, hàng cây tuyệt đẹp và các di sản đô thị hình thành thời Pháp thuộc trên đường Phan Đình Phùng – con đường lãng mạn nhất của Thủ đô. Cũng rất thú vị là tuyến UMRT số 2 đi ngầm ở đường Quán Thánh hoàn toàn trùng với tuyến tàu điện đầu tiên của Hà Nội.
Cũng phải nói thêm rằng, kể cả ở từ thời thuộc địa, không có tuyến tàu điện nào chạy qua khu trung tâm Ba Đình, dù đây là khu vực được quy hoạch là trung tâm chính trị – hành chính Đông Dương. Có lẽ, phương tiện giao thông công cộng thời kỳ nào cũng hướng đến phục vụ số đông, sử dụng thường xuyên.
Đối với Khu phố Cổ, việc đảm bảo an toàn về nền móng, tránh gây hư hại cho các công trình trên mặt đất khi tuyến ngầm UMRT số 2 đi qua khu vực này là điểm cần quan tâm. Điều này cũng đúng đối với khu vực Hồ Gươm. Tất nhiên, với trình độ khoa học kỹ thuật ngày nay, vấn đề này hoàn toàn có thể giải quyết được bằng những phương án tiên tiến, hiện đại.
Những tranh luận hiện nay đang tập trung vào vị trí nhà ga C9 của tuyến đường sắt này.
– Ở góc độ bảo tồn di sản, vấn đề quan tâm là phần nổi của nhà ga có ảnh hưởng đến không gian cần bảo tồn nguyên trạng hay không? Những phân tích ở trên có thể, về khía cạnh không gian, chỉ cần phần nổi – cửa hầm của ga có quy mô và hình thức hài hòa với cảnh quan đô thị khu vực là có thể chấp nhận được. Phương án bố trí lối lên xuống tích hợp trong một công trình thời Pháp thuộc lân cận, được bảo tồn kiến trúc bên ngoài là một sự giao hòa có ý nghĩa.
– Điều quan trọng cần phải nghiên cứu hơn đó là việc nhà ga và tuyến UMRT sẽ khiến số lượng người đi và đến khu vực sẽ tăng trưởng mạnh, kéo theo những thay đổi trong hoạt động đô thị của một khu vực – vốn dĩ có hệ thống hạ tầng đô thị cũ. Nếu lựa chọn xây dựng tuyến UMRT số 2, việc đổi mới hệ thống hạ tầng đô thị gồm cả hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội khu vực Hồ Gươm và xung quanh chắc chắn sẽ phải đặt ra trong quy hoạch. Đồng thời với việc tạo những kết nối mới với tuyến UMRT. Đây là một thách thức nhưng cũng là cơ hội phát triển.
Với những phân tích, so sánh và nhận xét trên, có thể có những ý kiến sơ bộ sau đây:
– Việc hình thành một mạng lưới UMRT hiện đại đi qua khu trung tâm lịch sử Hà Nội sẽ tác động lớn đến cấu trúc không gian đô thị khu vực. Hoạt động đô thị gia cường sẽ thay đổi toàn diện hình ảnh đô thị. Những ưu điểm và nhược điểm sẽ đồng thời xuất hiện. Phát huy ưu điểm, hạn chế nhược điểm ngay từ ban đầu, và trong suốt quá trình quy hoạch là việc quan trọng của chính quyền đô thị. Trong đó, cần chú trọng đặc biệt đến việc nghiên cứu điều chỉnh các chức năng đô thị theo hướng đáp ứng nhu cầu thương mại, dịch vụ – du lịch. Hiện đại hóa hệ thống hạ tầng kỹ thuật, tạo các liên kết trực tiếp giữa ga của các tuyến UMRT với các công trình công cộng, công trình có quy mô và lượng người sử dụng lớn.
– Nếu Hà Nội không mất đi mạng lưới tàu điện xưa, chỉ riêng tuyến UMRT số 1 nên hình thành mới bởi tính chất kết nối – xuyên tâm quan trọng của nó. Còn lại, có lẽ, các tuyến UMRT chỉ nên dừng ở vùng biên của khu trung tâm lịch sử, tại một số ga chính như: ga Hà Nội, ga Cát Linh… – nơi giao cắt của các tuyến giao thông quan trọng. Từ đây, các tuyến tàu điện truyền thống được hiện đại hóa sẽ xuất phát phục vụ nhu cầu giao thông công cộng của người dân. Đây là loại hình phương tiện rất phù hợp với cấu trúc không gian, hạ tầng đô thị của khu trung tâm lịch sử. Điều đáng suy ngẫm là hiện nay các nước phát triển hiện vẫn giữ lại mạng lưới tàu điện có tuổi đời cả trăm năm trong khi vẫn phát triển các phương thức giao thông công cộng hiện đại mới. Phải chăng, việc phục hồi một số tuyến tàu điện lịch sử cùng với xem xét điều chỉnh mạng lưới UMRT trong khu trung tâm lịch sử là một điều nên làm?
– Đặc trưng của đô thị lịch sử Hà Nội là sự chuyển hóa hài hòa ở cả khía cạnh không gian, thời gian và chức năng. Nắm vững quy luật này sẽ kiến tạo được quy hoạch hợp lý, hiệu quả và tiết kiệm trong phát triển hay tái thiết và cải tạo đô thị. Điều này cũng đúng với cả việc nghiên cứu quy hoach mạng lưới giao thông công cộng nói chung của Thủ đô, nói riêng với mạng lưới UMRT trong khu trung tâm lịch sử Hà Nội./.
KTS Vũ Hoài Đức - Viện Quy hoạch Xây dựng Hà Nội (HUPI)
Quy hoạch đô thị đang là bài toán khó ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, người đi sau cũng có cái lợi khi công nghệ đã giải quyết được những bài toán quy hoạch giao thông mà chỉ mươi năm trước dường như không thể.
Bài toán khó cần sớm giải
Theo PGS.TS.KTS Nguyễn Trọng Hòa, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển TP. HCM, nhìn nhận chung, quy hoạch và quản lý đô thị ở nước ta vẫn còn bị ảnh hưởng của quán tính bao cấp, chủ yếu dựa vào các nguyên tắc thiết kế tĩnh, thiếu linh hoạt theo hướng thị trường.
Trong khi đó, đô thị ngày càng khẳng định vai trò động lực then chốt trong nền kinh tế vơi khoảng 55% dân số sống tại các đô thị vào năm 2020.
Do đó, cần cải cách công nghệ và quy trình lập quy hoạch xây dựng đô thị theo hướng chuyển từ quy hoạch “tĩnh” sang quy hoạch “động”.
PGS.TS.KTS Nguyễn Quốc Thông, Phó chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam cũng cho rằng, việc mở rộng quá mức, quá nhanh không gian đô thị, mâu thuẫn giữa quy mô và chất lượng đô thị, giữa bảo tồn và phát triển hay phát triển để bảo tồn di sản đô thị… là những nút thắt đang đặt ra.
Chẳng hạn như gần đây có hiện tượng nhiều tỉnh cố gắng “phấn đấu” lên hạng thành phố trực thuộc Trung ương.
Hiện tượng này có nguy cơ như là hội chứng trong phát triển đô thị ở nước ta. Hay một số xu hướng khác như phát triển khu trung tâm hành chính đô thị các cấp hoặc trung tâm hành chính tập trung…
“Trong nhiều trường hợp, những quyết định hành chính này sẽ để lại những hệ lụy lãng phí tiền của, công sức và rất khó xử lý lại. Chẳng hạn như trường hợp Thành phố mới Bình Dương được xây dựng rất hoành tráng với kỳ vọng rất lớn, nhưng thiếu một số yếu tố hạ tầng mềm nên sau nhiều năm vẫn còn khá hoang vắng”, một chuyên gia quy hoạch cho biết.
Rõ ràng, ở đây, vấn đề nghiên cứu, lựa chọn lý thuyết và mô hình phát triển đô thị thích hợp với điều kiện của Việt Nam có ý nghĩa tiên quyết.
Bên cạnh đó, cần xây dựng và cập nhật thường xuyên ngân hàng dữ liệu kinh tế - xã hội, thị trường bất động sản… phục vụ công tác lập quy hoạch đô thị, đồng thời để đồ án quy hoạch là hồ sơ khả dĩ nhằm bổ trợ và dẫn dắt quá trình phát triển theo định hướng thiết kế.
Theo giới chuyên gia, thực trạng quy hoạch đô thị tại Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại đáng bàn, đặc biệt tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM. Khi áp lực giao thông “đè nặng” lên hạ tầng, gần đây, vấn đề hạn chế xây cao ốc trong các quận trung tâm lại được đặt ra.
Song song với việc không tiếp tục phát triển chung cư, căn hộ nhà cao tầng khu vực trung tâm, một số ý kiến đề nghị phát triển khu đô thị vệ tinh để điều phối, bố trí lại dân cư, lực lượng lao động nhằm giải tỏa cho các thành phố trước những áp lực giải quyết việc làm, nhà ở, an sinh xã hội, trật tự an toàn giao thông.
Tuy nhiên, cũng có những quan điểm trái chiều cho rằng, “đô thị nén” với các cao ốc là câu chuyện phổ biến.
Vấn đề lớn nhất là triển khai dự án nhà ở phải đi đối với phát triển hạ tầng. Bên cạnh đó, câu chuyện dự án chậm tiến độ cũng là vấn đề đau đầu đối với quy hoạch đô thị. Đơn cử tại Hà Nội, hiện nay có đến 383 dự án chậm triển khai trên địa bàn.
Theo quan điểm của Bộ Xây dựng, nguyên nhân khiến xảy ra tình trạng dự án “treo” là do việc lập quy hoạch còn chưa tổng hợp đầy đủ và xử lý tốt các thông tin hiện trạng và thông tin dự báo về tình hình kinh tế - xã hội và các yếu tố đầu vào khác dẫn tới mục tiêu, tầm nhìn, một số vấn đề chiến lược trong quy hoạch chưa chính xác.
Đồng thời, quy hoạch thiếu tính khả thi do chưa hoặc không xác định các yếu tố, điều kiện thực hiện, nhất là về nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư cho hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội (đường giao thông, cấp thoát nước, cây xanh, công viên, trường học…) và đền bù giải phóng mặt bằng.
Việc tổ chức quản lý và thực hiện quy hoạch sau khi công bố chưa được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ theo quy định.
Một số nhà đầu tư do không quan tâm hoặc không đủ năng lực tài chính nên mới chỉ chú ý đầu tư xây dựng các công trình nhà ở, thương mại, dịch vụ mà chưa tập trung xây dựng các công trình hạ tầng trong khu vực dự án và công trình hạ tầng kết nối dự án với các khu vực lân cận.
Và kinh nghiệm quốc tế
Ông Tom Berge, Ủy viên Hội đồng Quy hoạch đô thị California, Mỹ chia sẻ: “Giống như nhiều thành phố trên thế giới, chúng tôi cũng gặp phải khó khăn chung trong quy hoạch đô thị như phải giải quyết các câu chuyện về mật độ số đông đảm bảo giá nhà hợp lý, không gian xanh...
Đặc biệt là tại Nam California, quỹ đất còn lại của chúng tôi cũng rất ít, vì vậy giải pháp đưa ra là phát triển đô thị theo chiều cao. Trên thực tế, mật độ xây dựng ở các khu trung tâm California đang rất cao.
Bên cạnh đó, khuyến khích người dân sử dụng phương tiện công cộng, không khuyến khích sử dụng phương tiện cá nhân. Đồng thời, xây dựng hệ thống khép kín, ví dụ bên trên là nhà ở thì bên dưới là trung tâm mua sắm...”.
Vị chuyên gia này cho biết, chính quyền bang California khuyến khích các chủ đầu tư dành một quỹ đất, quỹ nhà cho các nhóm đối tượng có thu nhập thấp.
Mỗi thành phố lại có một hội đồng quy hoạch đô thị và cứ mỗi 5 - 10 năm sẽ có sự thay đổi, điều chỉnh để phù hợp hơn với nhu cầu người dân. Đồng thời, phải có các dự báo về tương lại để lồng ghép vào quy hoạch đô thị trong tương lai.
“Chúng tôi phải phân bổ khu vực nào là khu dân cư, đâu là khu thương mại hay đâu là bãi đỗ xe... Những tiện ích này phải đi dọc theo hành lang dân cư để người dân có thể được hưởng các tiện ích một cách tối đa”, ông Tom Berge chia sẻ.
Trong khi đó, ông Remigio Ramirez, chuyên gia quy hoạch môi trường/đô thị đến từ Philippines cho biết, tại các đô thị lớn của Philippines cũng phải đối diện với rất nhiều thách thức về giao thông... Đặc biệt, Philipines phải đối mặt với nhiều cơn bão lớn nên phải quy hoạch đô thị để thích ứng với các tác động của tự nhiên.
“Chúng tôi vẫn đang trong giai đoạn khắc phục thực trạng này vì đường phố hiện nay có quá nhiều xe hơi, mà không thể mở rộng đường theo sự tăng trưởng của xe hơi. Chính phủ Philippines cũng sẽ áp dụng các kinh nghiệm quản lý của Singapore trong việc quản lý và sử dụng xe hơi.
Và Philippines đang nghiên cứu tính khả thi của tàu điện ngầm ở các địa phương khác nhau. Đặc biệt, ở Philippines, quy hoạch cần tham khảo ý kiến người dân để có chiến lược phù hợp”, ông Remigio Ramirez cho biết thêm.
Đồng quan điểm về quy hoạch chiều cao, ông Harry Yeo, nguyên Chủ tịch Viện Bất động sản Singapore chia sẻ: “Chúng tôi là một đảo quốc rất nhỏ với khoảng hơn 700km2. Chính vì vậy mà quy hoạch đô thị có vai trò rất quan trọng.
Do quỹ đất hạn chế, chúng tôi buộc phải phát triển đô thị theo chiều cao và xây thêm nhiều tòa nhà chọc trời.
Chúng tôi cũng phát triển nhiều dự án nhà ở xã hội để người dân có thể dễ dàng tiếp cận với nhà ở. Singapore phải đảm bảo quy hoạch đô thị vẫn có các không gian xanh và tiện ích tốt nhất.
Theo ông Harry Yeo, quy hoạch giao thông đây là yếu tố quan trọng trong quy hoạch đô thị. Với kế hoạch quy hoạch tổng thể dài hạn 5 - 10 năm, Chính phủ phân vùng quy hoạch cho kinh doanh và nhà ở riêng biệt. Nếu đã quy hoạch cho kinh doanh thì sẽ không có nhà ở.
Ông Soichrio Takamine, Phó vụ trưởng, Ban Quy hoạch Đô thị, Cục Đô thị, Bộ Đất đai hạ tầng giao thông (Nhật Bản) cũng chia sẻ: “Cách đây vài tuần có một trận động đất xảy ra ở Hokkaido. Động đất là hiện tượng không hiếm và là vấn đề lớn phải đặt ra trong quá trình quy hoạch đô thị của Nhật Bản.
Dân số Nhật Bản đang phát triển ngày càng lớn và chúng tôi đặt ra yêu cầu quy hoạch phải đảm bảo yếu tố môi trường. Đồng thời, trong quy hoạch, Nhật Bản chú trọng yếu tố bảo tồn. Chính quyền địa phương tuân thủ quy định rất tốt về quy hoạch đô thị.
Bối cảnh xã hội cũng đã thay đổi nhiều nên quy hoạch đô thị cũng phải phát triển theo. Chúng tôi phải đảm bảo hài hòa giữa phát triển xã hội và phát triển đô thị”.
Vị chuyên gia này cho biết, Nhật Bản coi việc ứng dụng công nghệ là then chốt để để quản lý tốt hạ tầng, tăng cường kết nối các mạng lưới, hệ thống, bố trí khu dân cư gần các phương tiện công cộng để phát triển hệ thống giao thông công cộng, giảm tải tắc đường và ô nhiễm môi trường.
Trong quá trình quy hoạch, Nhật Bản cũng đề cao thúc đẩy các hình thức mới giúp người dân có cuộc sống thoải mái hơn. Ở Nhật Bản, thành tố cơ bản để tạo nên các đô thị chính là giao thông công cộng.
Nhất Nam
(Đầu tư Bất động sản)
Sau khi Hà Nội mở rộng địa giới hành chính, diện tích Thủ đô định hình hơn 3.358 km2, dân số 7,7 triệu người (gấp 1,24 lần so với năm 2008) với 30 quận, huyện, thị xã và 584 xã, phường, thị trấn. Để định hình Thủ đô trong không gian mới, công tác quy hoạch luôn được lãnh đạo thành phố quan tâm.
Rà soát lại một loạt đồ án quy hoạch
Thành phố Hà Nội đã chủ động triển khai ngay việc xây dựng chiến lược, quy hoạch và cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô trên địa bàn mở rộng. Hà Nội đã tổ chức rà soát 642 đồ án quy hoạch, dự án đầu tư, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép tiếp tục triển khai 329 đồ án phù hợp với quy hoạch Hà Nội mở rộng; hoàn thành việc rà soát, đề xuất cho dừng, giãn, hoãn, chuyển đổi mục đích đầu tư các dự án không phù hợp định hướng quy hoạch mới.
Ông Vũ Duy Tuấn, Phó Giám đốc Sở Kế hoạch đầu tư Hà Nội cho biết: Hà Nội cũng triển khai nghiên cứu, xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050; Quy hoạch nguồn nhân lực Thủ đô đến năm 2020, tầm nhìn 2030; Quy hoạch sử dụng đất Thành phố đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011-2015). Đây là những quy hoạch mang tính định hướng và phải đi trước một bước.
Cùng với đó, Hà Nội phối hợp với các cơ quan Trung ương nghiên cứu, xây dựng dự thảo Luật Thủ đô, được Quốc hội thông qua ngày 21/11/2012; trên cơ sở đó, Thành phố đã ban hành 11 cơ chế, chính sách cụ thể hóa Luật Thủ đô để triển khai thực hiện trên địa bàn. Giai đoạn này, Hà Nội đã hoàn thành đô thị hóa huyện Từ Liêm và điều chỉnh địa giới thành 2 quận. Hiện nay Thành phố đang chỉ đạo xây dựng Đề án phát triển và chuyển đổi huyện Hoài Đức thành quận để nâng cao tỷ lệ đô thị hóa.
Trong 10 năm qua, không gian đô thị phát triển theo Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô tạo nên diện mạo mới sau 10 năm phát triển. Nhiều dự án khu đô thị mới văn minh, hiện đại đã và đang hình thành: Văn Quán, Mỹ Đình, Mỗ Lao, An Khánh về phía Tây; Việt Hưng, VinHome RiverSide về phía Đông; Linh Đàm, Garmuda về phía Nam; Ciputra ở phía Bắc;… cùng với các khu đô thị mới trong vành đai 3 như Royal City, Times City, Trung hòa Nhân Chính… đã tạo nên không gian đô thị, diện mạo mới cho Thủ đô sau 10 năm phát triển.
Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Ngô Văn Quý cho biết: Thành phố đang tiếp tục đẩy mạnh phát triển vùng đô thị mở rộng lên phía Bắc với một số dự án như công viên Kim Quy, Trung tâm hội chợ triển lãm Quốc gia; kêu gọi đầu tư phát triển Thành phố thông minh khu vực hai bên tuyến đường Nhật Tân-Nội Bài.
Thời gian tới, để tiếp tục xây dựng, phát triển Thủ đô xứng với tiềm năng hiện có, Hà Nội kiến nghị tiếp tục thực hiện có hiệu quả Luật Thủ đô, đề nghị Trung ương tiếp tục quan tâm đầu tư một số công trình, dự án trọng điểm có quy mô lớn trên địa bàn Thủ đô. Đặc biệt, Hà Nội kiến nghị bổ sung một số cơ chế, chính sách tài chính đối với Thủ đô Hà Nội trong quá trình nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Nghị định 63/2017/NĐ-CP của Chính phủ nhằm phát huy tính chủ động, khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của Thủ đô.
Sớm giải quyết những bất cập
Tại hội nghị góp ý cho báo cáo tổng kết 10 năm mở rộng địa giới hành chính Hà Nội, không ít ý kiến đã chỉ ra những tồn tại mà Hà Nội cần sớm khắc phục. Phó trưởng Ban Thường trực Ban Kinh tế Trung Ương Cao Đức Phát cho rằng: Hà Nội cần có những đánh giá chất lượng và việc thực hiện quy hoạch. Trong quy hoạch, Hà Nội định hướng những đô thị vệ tinh để kéo giãn dân trong nội đô nhưng đến nay chưa hình thành được những khu đô thị vệ tinh để kéo giãn mật độ dân số trong nội thành. Hà Nội vẫn còn tập trung các hoạt động kinh tế nhiều vào trong nội đô. Điều đó thể hiện qua việc giao thông quá tải dẫn đến tắc nghẽn, ô nhiễm môi trường còn tồn tại trong khu vực nội thành.
Đối với các khu vực sát nhập về Hà Nội, không ít dự án treo vẫn đang tồn tại đến nay vẫn chưa được giải quyết. Đơn cử như tại Mê Linh, có tới 47 dự án khi chuyển giao về Hà Nội thì đến nay mới chỉ có 1 dự án đã xong, 12 dự án đình chỉ, còn lại triển khai rất chậm. “Do đó trong tháng 8 này, Thành phố sẽ có cuộc hợp chuyên đề để giải quyết những vướng mắc với các dự án còn lại”, ông Vũ Duy Tuấn, Phó Giám đốc Sở KHĐT cho biết.
Trong khi đó, nguyên Giám đốc Sở Quy hoạch và kiến trúc Hà Nội Tô Anh Tuấn cho rằng: Với không gian mở rộng, thành phố có nhiều điều kiện phát triển thành trung tâm chính trị, kinh tế - xã hội của cả nước. Ông Tuấn cũng thẳng thắn chỉ rõ những tồn tại sau 10 năm mở rộng địa giới hành chính, trong đó có việc hình thành nhiều khu đô thị nhưng chưa có khu đô thị nào đồng bộ, đủ thu hút dân cư, góp phần giải tỏa, gánh đỡ cho nội đô.
Còn kiến trúc sư Nguyễn Hồng Thục, một trong những người được mời thiết kế Khu đô thị Linh Đàm từ đầu chia sẻ: Khu nhà ở Bắc Linh Đàm nguyên bản với hình thành các phố trong khu đô thị, khu sinh hoạt chung. Quy hoạch chung với 60% diện tích khu là sân chơi, sinh hoạt cộng đồng, vườn hoa; nhà ở chiếm 23%. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, khu đất HH bị phá vỡ quy hoạch ban đầu và biến thành Tổ hợp chung cư HH Linh Đàm với khoảng 8.000 căn hộ. Công trình do Công ty tư nhân xây dựng số 1 Điện Biên làm chủ đầu tư với 4 tổ hợp nhà từ 35 đến 41 tầng (khoảng 20 căn hộ/tầng) trên khu đất khoảng 3 ha. Mỗi tổ hợp lại gồm 3 đơn nguyên nhà A, B, C. Tổng cộng khu HH có tới 12 tòa nhà chung cư cao tầng, mật độ xây dựng trên 50%.
Điều này cho thấy quy hoạch tại nhiều khu nội đô đang không như ban đầu, đây là một trong những nguyên nhân khiến hạ tầng dù đã được cải tạo so với trước nhưng không đồng bộ, dẫn đến tình trạng ùn tắc giao thông, áp lực dân số ngày càng lớn… Có thể thấy, bên cạnh những kết quả đạt được, Hà Nội còn rất nhiều việc phải giải quyết trong việc thực hiện đúng với quy hoạch được duyệt.
Theo XC - Báo tin tức
Đổi mới quy hoạch xây dựng đô thị về tầm nhìn dài hạn sẽ từng bước hạn chế tình trạng phát triển theo xu hướng dàn trải, khai thác quỹ đất không có định hướng rõ ràng dẫn đến tình trạng cạn kiệt nguồn đất dự trữ phát triển, đặc biệt quỹ đất dành cho các lĩnh vực giáo dục, cây xanh, thể thao, vui chơi giải trí và các phúc lợi xã hội.
KTS. Trần Thị Lan Anh (Cục Phát triển đô thị - Bộ Xây dựng) chỉ ra kinh nghiệm quy hoạch đô thị tại Australia là quá trình từ dưới lên trên, quy hoạch bắt đầu từ cấp chính quyền địa phương, có sự tham gia, tham vấn của chính quyền cấp cao đảm bảo sự phối hợp cần thiết giữa các cơ quan có liên quan tại địa phương.
Để kiểm soát phát triển, sau bản quy hoạch chiến lược, thực hiện lập quy hoạch cấu trúc chỉ ra các yêu cầu quản lý sự thay đổi về sử dụng đất. Các địa phương dựa trên kinh nghiệm của mình để tổ chức lập quy hoạch chiến lược cho toàn bộ đô thị và lập quy hoạch cấu trúc cho từng phần khu vực, sự can thiệp của Chính phủ vào quy trình quy hoạch ở Australia là không đáng kể.
Đồ án quy hoạch tại địa phương được lập làm cơ sở để cấp phép quy hoạch, các khu thực sự có nhu cầu đầu tư xây dựng cải tạo chỉnh trang, xây dựng mới tổ chức lập quy hoạch cấu trúc làm cơ sở cấp phép quy hoạch và lập hồ sơ dự án phát triển đô thị. Đơn xin cấp phép được xem xét khi thỏa mãn các điều kiện về quy hoạch chiến lược, quy hoạch cấu trúc và không làm ảnh hưởng đến xung quanh.
Đồ án quy hoạch đô thị được duyệt là công cụ pháp luật để phổ biến rộng rãi cho công chúng, cộng đồng, doanh nghiệp và các bên liên quan thực hiện. Việc cấp phép quy hoạch là một quy trình mở tạo tính linh hoạt tối đa cho nhà đầu tư cũng là công cụ hữu hiệu để tăng cường kiểm soát quá trình đầu tư phát triển đô thị theo quy hoạch được duyệt.
Còn ở Nhật Bản, quy hoạch đô thị là 1 bản quy hoạch chiến lược phát triển hay cải tạo nâng cấp chung cho đô thị, rất nhiều dự án mấu chốt được xác định tại bước quy hoạch chung đô thị. Tuy nhiên, quy hoạch đô thị thường chịu ảnh hưởng rất mạnh bởi quy hoạch giao thông, đặc biệt tuyến đường sắt cao tốc và sự gắn kết các loại hình giao thông thủy bộ, hàng không.
Quan điểm phát triển bền vững quy hoạch các thành phố của Nhật Bản thường được xem xét cả quy hoạch cứng và quy hoạch mềm. Phần cứng là xây dựng hạ tầng cả kỹ thuật và xã hội cho đô thị, phần mềm là chuẩn bị chất lượng dân cư, môi trường sống cho người dân đô thị.
Quy hoạch vùng là quy hoạch chung được xem là công cụ pháp luật quan trọng, đươc chuyển thành các chương trình dự án cụ thể, quảng bá xúc tiến đầu tư nên sau khi hoàn chỉnh sẽ được công bố rộng rãi, đặc biệt về quy hoạch sử dụng đất đô thị và quy hoạch hạ tầng cơ sở, các chương trình, chính sách và những nguyên tắc phát triển để các nhà đầu tư và nhân dân tham gia thực hiện.
Tại Việt Nam, thực tế cho thấy các quy hoạch xây dựng vùng tỉnh có tính hiệu lực không cao, hệ thống đô thị hình thành và phát triển theo hướng dàn hàng ngang, tăng về số lượng đô thị, trong khi chất lượng chưa đảm bảo tiêu chuẩn quy chuẩn thiết kế, dự báo trong của các quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị thường không chính xác, dễ bị phá hỏng, phải điều chỉnh.
Về nguyên tắc quy hoạch xây dựng, quy hoạch chung đô thị đã được lập trên cơ sở tiếp cận đa ngành và quy hoạch chung đô thị có ảnh hưởng mạnh nhất đến quá trình phát triển của từng đô thị nhưng còn thiếu hiệu quả, chưa phù hợp thực tế phát triển tại địa phương.
Để các quy hoạch có hiệu quả hơn, quy hoạch cần có tính chiến lược, ít cứng nhắc và quan trọng cần dựa trên nguồn lực thực tế của địa phương và phải tính tới các rủi ro, thách thức phải chống chịu để có tính khả thi cao hơn.
Theo Sở Xây dựng Đà Nẵng, sự phát triển quá nhanh có phần thiếu kiểm soát về quy mô, ranh giới đô thị khiến cho cấu trúc đô thị có phần bất ổn. Nhiều khu vực trước đó được xác định thuộc ngoại vi như các khu công nghiệp, khu xử lý chất thải, nghĩa trang, tuyến đường sắt nay cũng bi bao vây bởi các khu vực phát triển đô thị mới.
Đô thị phát triển theo xu hướng dàn trải, thấp tầng, sử dụng tỷ lệ lớn đất đai dành cho chức năng ở. Việc khai thác quỹ đất không có định hướng rõ ràng dẫn đến tình trạng cạn kiệt nguồn đất dự trữ phát triển, đặc biệt quỹ đất dành cho các lĩnh vực giáo dục, cây xanh, thể thao, vui chơi giải trí và các phúc lợi xã hội.
Vì vậy, quy trình và nội dung quy hoạch cần đổi mới theo hướng lồng ghép mục tiêu phát triển bền vững, ứng phó biến đổi khí hậu, phát triển đô thị xanh. Đồng thời phải nâng cao năng lực lập và thực hiện các quy hoạch cho các đơn vị quy hoạch để các cơ sở này có thể lập các phương án quy hoạch có nội dung khả thi, tầm nhìn dài hạn, đáp ứng nhanh kế hoạch triển khai quy hoạch phát triển đô thị.
Hà Đào
(Báo Xây dựng)
Hệ thống quy định pháp luật quản lý công trình cao tầng
Sau khi đất nước thống nhất, Nhà nước bắt đầu bãi bỏ chính sách bao cấp về nhà ở, thay vào đó là các chính sách khuyến khích, tạo điều kiện để người dân tự cải thiện nhà ở. Năm 1992 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 118/TTg bãi bỏ chế độ phân phối về nhà ở và đưa tiền phụ cấp về nhà ở vào tiền lương. Cùng với chính sách xóa bỏ bao cấp về nhà ở, Nhà nước triển khai bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước, góp phần tạo nguồn vốn đầu tư phát triển nhà ở và thực hiện chính sách hỗ trợ nhà ở cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách Nhà nước và các đối tượng xã hội như: lực lượng vũ trang, sinh viên, người có công với cách mạng…
Phù hợp với tiến trình phát triển, Nhà nước thông qua Luật Nhà ở để quản lý nhà ở. Năm 2005, Luật Nhà ở ra đời, muộn hai năm so với Luật Đất đai (2003) đã củng cố toàn diện về mặt pháp lý đối với quản lý nhà ở. Nhà nước có kế hoạch phát triển nhà ở trong đó tập trung xây dựng các khu chung cư trong các khu đô thị – là một trong các chiến lược quan trọng trong phát được chuyển hướng thành xây dựng các khu nhà ở với phát triển đồng bộ các công trình hạ tầng xã hội và công trình hạ tầng kỹ thuật được gọi là các khu đô thị mới. Ý tưởng này được hình thành từ giữa thập niên 90 mà khởi đầu bằng KĐT Linh Đàm tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh là KĐT Phú Mỹ Hưng. Ngày 15/06/1997 khu đô thị mới Linh Đàm chính thức được khởi công xây dựng. Tổng Công ty đầu tư và phát triển nhà và đô thị (HUD) thuộc Bộ Xây dựng là đơn vị doanh nghiệp nhà nước đầu tiên thực hiện ý tưởng này.
Ngày 05/01/2006, sau 9 năm thực hiện các dự án thí điểm khu đô thị mới, Chính phủ ban hành Nghị định 02/2006/NĐ-CP về Quy chế khu đô thị mới, chính thức pháp quy hóa việc phát triển đô thị theo các dự án khu đô thị mới mà chủ yếu là xây dựng nhà chung cư.
Trong giai đoạn hiện nay, cùng với sự phát triển kinh tế, xu thế nhà cao tầng đang nở rộ tại các đô thị Việt Nam. Qui mô cũng như số tầng cao ngày càng tăng. Tuy nhiên, công tác quy hoạch và quản lý đô thị của Việt Nam còn nhiều bất cập. Số lượng những khu đô thị mới đạt chuẩn còn rất hạn chế, trong khi đó lại xuất hiện nhiều dự án nhà cao tầng vì lợi ích kinh tế, xây chen lấn chất tải lên hạ tầng kỹ thuật hiện có…. Dịch vụ tiện ích trong các khu nhà ở cao tầng cũng là một vấn đề cần bàn đến. Chất lượng kết cấu hạ tầng tại các đô thị vẫn còn thấp dẫn đến tình trạng ùn tắc giao thông diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Vấn đề về cấp thoát nước, phòng cháy chữa cháy, cứu hộ, thoát người khi có sự cố cũng là một vấn đề nhức nhối đối với nhà ở cao tầng tại các đô thị Việt Nam trong những năm gần đây.
Bên cạnh một số ít các nhà ở cao tầng thành công, còn rất nhiều công trình được xây lên thuần túy chạy theo lợi nhuận, không chú trọng đến chất lượng sống, môi trường vi khí hậu, trở thành những cỗ máy tiêu thụ năng lượng đáng báo động. Nhiều nhà ở cao tầng tại các đô thị Việt Nam chưa đáp ứng đầy đủ sự đi lại, giao lưu trong cộng đồng, các hoạt động giải trí, thể thao… khiến cho con người sống trong đó có cảm giác thiếu thốn, ngột ngạt… Vấn đề vi khí hậu cho các căn hộ chưa được giải quyết tốt, khoảng cách giữa con người với thiên nhiên ngày càng xa cách bởi không gian xanh hiếm hoi dần bị lấp đầy bởi kính và bê tông.
Về chính sách phát triển nhà ở, theo quyết định số 2127/QĐ-TTg ngày 30/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược nhà ở quốc gia đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030, tỷ lệ nhà ở chung cư trong các dự án phát triển nhà ở tại các đô thị loại đặc biệt (Hà Nội và TP Hồ Chí Minh) đạt trên 90%, đô thị từ loại 1 đến loại 2 đạt trên 60%, đô thị loại 3 đạt trên 40% tổng số đơn vị nhà ở xây dựng mới.
Theo các khái niệm hiện nay về nhà cao tầng và nhà ở chung cư thì phần lớn nhà cao tầng hiện nay là nhà ở chung cư, với các chức năng khác nhau. Nếu so sánh với hệ thống phân loại tại các nước phát triển như Singapore, Hoa Kỳ sẽ bao gồm nhà ở cao tầng (Residence) và các loại công trình cao tầng phi nhà ở hoặc chức năng hỗn hợp (Non – Residence).
Trên cơ sở đó, các địa phương ban hành quyết định riêng, cụ thể hóa các mục tiêu theo quyết định số 2127/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Hà Nội thông qua Nghị quyết số 05/2013/NQ-HĐND ngày 12/07/2013 của Hội đồng nhân dân Thành phố về Chương trình phát triển nhà ở giai đoạn 2012-2020 và định hướng đến năm 2030.
Trên cơ sở Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, chính quyền Thành phố triển khai xây dựng nhà ở trong đó có nhà ở cao tầng và các loại nhà có chức năng sử dụng khác.
Hiện nay, nhà ở cao tầng đã bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều hình thức phong phú đa dạng. Từ các chủ đầu tư với các phương án thiết kế trong nước đến ngoài nước, từ các doanh nghiệp nhà nước đến doanh nghiệp tư nhân đầu tư… Chất lượng xây dựng cũng có sự thay đổi phụ thuộc vào tiêu chuẩn thiết kế được sử dụng và các nhà thầu xây dựng.
Nội dung quy định pháp luật về quản lý công trình cao tầng nội đô
Về khái niệm nhà ở cao tầng, theo TCXDVN 323:2004 “Nhà ở cao tầng – Tiêu chuẩn thiết kế” nhà ở cao tầng là loại nhà ở, căn hộ có chiều cao từ 9 đến 40 tầng (trên 40 tầng thường gọi là nhà chọc trời). QCVN 06:2010/BXD về an toàn cháy cho nhà và công trình phân định nhà cao tầng thuộc nhóm nguy hiểm cháy theo công năng có chiều cao lớn hơn 50m và 70m phải có giải pháp riêng được cơ quan PCCC thẩm định phê duyệt. Đầu năm 2013, Bộ Xây dựng ra Quyết định 212 hủy bỏ 169 tiêu chuẩn xây dựng trong đó có TCXDVN 323:2004 “Nhà ở cao tầng – Tiêu chuẩn thiết kế”, chỉ giữ lại 20 tiêu chuẩn được cho là phù hợp trong giai đoạn hiện nay, đến nay vẫn chưa có tiêu chuẩn thay thế.
Về khái niệm nhà chung cư, QCVN 03:2012/BXD quy định là nhà ở hai tầng trở lên có lối đi, cầu thang và hệ thống công trình hạ tầng sử dụng chung cho nhiều căn hộ gia đình, cá nhân. Nhà ở chung cư thực tế thường là nhà cao hơn 9 tầng thuộc loại nhà ở cao tầng.
Nhà cao tầng được xây dựng lồng ghép trong kế hoạch phát triển nhà ở (theo số m2 sàn được cấp phép xây dựng), bị khống chế về chiều cao theo các chỉ tiêu và tiêu chí của QCXDVN như MXD, HSDĐ, tầng cao, khoảng lùi v.v… Tuy nhiên nhà cao tầng không được thống kê và phân loại riêng, nó được xây dựng theo quy trình đầu tư xây dựng cơ bản thông thường tuân theo quy định pháp luật về quy hoạch, kiến trúc của Trung ương mà quan trọng nhất là quy chuẩn xây dựng Việt Nam về quy hoạch xây dựng và các quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc của địa phương.
Tại Hà Nội, trước khi Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 1259/QĐ-TTg ngày 26/7/2011 phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2050, năm 1998 Thủ tướng đã ký Quyết định 108/1998/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2020 đã có định hướng chung về kiến trúc cảnh quan và quy hoạch sử dụng đất.
Tuy nhiên, trong khoảng thời gian đó, xây dựng nhà cao tầng đã trở thành vấn đề nổi cộm tại khu vực nội đô thành phố do các vấn đề về quá tải hạ tầng đô thị, hạ tầng xã hội và ùn tắc giao thông.
Chính phủ đã có chỉ đạo sát sao vấn đề này. Trong giai đoạn nghiên cứu lập đồ án quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội, Văn phòng Chính phủ đã ra Thông báo số 348/TB-VPCP ngày 9/12/2009 thông báo ý kiến kết luận của Thủ tướng Chính phủ về đồ án Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội và Thông báo 202/TB-VPCP vào ngày 19/7/2010 truyền đạt ý kiến của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại cuộc họp thường trực Chính phủ về việc xây dựng công trình cao tầng trong 04 quận nội thành, theo đó xây dựng nhà cao tầng phải theo các nguyên tắc sau:
– Xây dựng nhà cao tầng phải được giám sát chặt chẽ theo nguyên tắc và quan điểm quản lý không gian: tuân theo quy chuẩn quy hoạch xây dựng; quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị bảo đảm phù hợp với quy hoạch chi tiết xây dựng, phù hợp điều kiện hạ tầng kiến trúc và hạ tầng xã hội trong khu vực.
– Đối với các dự án đã được Thành phố chấp thuận chủ trương đầu tư và phê duyệt quy hoạch trước ngày 09/12/2009 được xem xét và quyết định theo thẩm quyền.
Trên cơ sở ý kiến của Thủ tướng Chính phủ, Sở QHKT Hà Nội đã phân loại dự án tính tới thời điểm trước ngày 9/12/2009; từ ngày 9/12/2009 đến ngày 31/12/2009 và các dự án sau thời điểm trên dựa trên bản đồ phân vùng kiểm soát. Phân vùng kiểm soát được chia thành các vùng: vùng không xây dựng cao tầng, vùng kiểm soát đặc biệt và vùng phát triển hạn chế. Các vùng này được xác định đối với các tuyến phố cụ thể.
Để quản lý kiến trúc cảnh quan khu vực nội đô lịch sử, Hà Nội được phân chia thành 7 khu vực từ A1 – A7:
– Ngày 24/10/2013, TP Hà Nội ban hành Quyết định số 6398/2014/QĐ-UBND Quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc khu phố cổ Hà Nội;
– Ngày 12/9/2014, TP Hà Nội ban hành Quyết định số 70/2014/QĐ-UBND Quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc chung TP Hà Nội;
– Ngày 13/8/2015, TP Hà Nội ban hành Quyết định số 24/2015/QĐ-UBND Quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc khu phố cũ Hà Nội.
Các Quyết định trên về cơ bản là quản lý quy hoạch kiến trúc chung Thành phố, trong đó có quản lý, kiểm soát xây dựng nhà cao tầng. Các quyết định chỉ rõ MXD, HSDĐ, và tầng cao cho từng ô phố.
Trước khi có các quyết định trên, UBND TP Hà Nội đã phê duyệt quy hoạch chi tiết các quận nội thành Thành phố, đó là:
– Quyết định số 96/2000/QĐ-UB ngày 07/11/2000 phê duyệt quy hoạch chi tiết quận Hoàn Kiếm;
– Quyết định số 68/2000/QĐ-UB ngày 14/07/2000 phê duyệt quy hoạch chi tiết quận Ba Đình;
– Quyết định số 32/2000/QĐ-UB ngày 03/04/2000 phê duyệt quy hoạch chi tiết quận Đống Đa;
– Quyết định số 16/2000/QĐ-UB ngày 14/02/2000 phê duyệt quy hoạch chi tiết quận Hai Bà Trưng.
Ngoài ra, khu vực Hồ Gươm và vùng phụ cận phải tuân theo các Quyết định số 448 BXD/KT-QH ngày 03/08/1996 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng phê duyệt quy hoạch chi tiết khu vực Hồ Gươm và phụ cận; Điều lệ quản lý xây dựng theo quy hoạch chi tiết khu vực Hồ Gươm và phụ cận số 45/QĐ-UB ngày 06/01/1997; Quyết định số 45/1999/QĐ-UB ngày 04/061999 quy định quản lý bảo tồn khu phố cổ.
Tuy nhiên, thống kê số lượng các dự án xây dựng công trình cao tầng, có thể thấy số lượng các dự án xây dựng nhà cao tầng nằm tại khu phố cũ, phố cổ là khá nhiều (khu vực nội đô lịch sử). Với các dự án nhà ở có thể tính được thông qua việc tăng dân số, đối với những dự án có các chức năng khác, nhất là các trung tâm thương mại khó tính được dân số cụ thể, thực tế những dự án loại này thường kéo theo lượng dân cư lớn và khó kiểm soát.
Trước tình hình trên, để cụ thể hóa việc quản lý xây dựng các công trình cao tầng trong khu vực nội đô lịch sử theo đồ án quy hoạch chung xây dựng thủ đô Hà Nội có hiệu lực về mặt pháp lý, ngày 07/04/2016 UBND Thành phố Hà Nội đã ký Quyết định số 11/2016/QĐ-UBND ban hành Quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc công trình cao tầng trong khu vực nội đô lịch sử. Quy chế có một số nguyên tắc sau:
– Cho phép nghiên cứu xây dựng công trình cao tầng tại các vị trí: 2 bên đường vành đai, tuyến phố hướng tâm, điểm nhấn đô thị.
– Cho phép nghiên cứu xây dựng công trình cao tầng theo hướng giảm dần tầng cao từ đường vành đai 2 vào trung tâm Thành phố.
Như vậy trước và sau khi Quyết định 11/2016/QĐ-UBND của UBND Thành phố Hà Nội ra đời, tình hình xây dựng nhà cao tầng vẫn diễn biến phức tạp, rất nhiều dự án xây dựng trong khu vực nội đô lịch sử bao gồm 04 quận nội thành cũ với các chức năng văn phòng, thương mại, chức năng hỗn hợp, tuy nhiên đã không tính toán đúng chỉ tiêu dân số, chỉ tiêu diện tích sàn và một số chỉ tiêu khác nên nhiều dự án hiện nay tuy đã có đầy đủ giấy phép nhưng Thành phố tạm dừng triển khai ví dụ như dự án D’ San Raffles địa chỉ 22 – 24 phố Hàng Bài Hoàn Kiếm, khách sạn Oriental Luxury 22 – 32 Lê Thái Tổ, Hoàn Kiếm.
Nhiều khu chung cư cao tầng được cấp phép xây dựng vi phạm quy định hiện hành về quy mô dân số, chiều cao hoặc quy chuẩn tiêu chuẩn về an toàn phòng cháy chữa cháy như các khu chung cư 148 Giảng Võ, khu chung cư Mường Thanh,… một số tuyến đường dày đặc nhà cao tầng như tuyến đường Lê Văn Lương, Tố Hữu.
Hoàn thiện hệ thống pháp lý quản lý công trình cao tầng khu vực nội đô
Qua điều tra, đánh giá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến xây dựng nhà cao tầng, có thể nhận thấy hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để điều tiết xây dựng phát triển nhà cao tầng nhiều nhưng thiếu, bởi sự phức tạp liên ngành liên quan đến nhiều lĩnh vực khác như đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đất đai nhà ở và quy hoạch đô thị, các tiêu chuẩn – quy chuẩn v.v…Tuy nhiên, trong nhóm tiêu chuẩn – quy chuẩn, tiêu chuẩn 323 về xây dựng nhà cao tầng là một trong số những tiêu chuẩn quan trọng liên quan chặt chẽ tới xây dựng nhà cao tầng đã bị hủy bỏ và hiện nay chưa có tiêu chuẩn thay thế. Trong tiêu chuẩn có định nghĩa thế nào là nhà cao tầng? Đây là một khoảng trống pháp lý vì cho đến thời điểm hiện tại Việt Nam không có định nghĩa rõ ràng về nhà ở cao tầng.
Quy chuẩn xây dựng Việt Nam QCXDVN 01:2008/BXD là quy chuẩn quan trọng nhất liên quan đến kiểm soát phát triển nhà cao tầng, trong đó có quy chuẩn về mật độ xây dựng, tầng cao, giao thông, bãi đỗ xe v.v… Tuy nhiên QCXDVN 01:2008/BXD đã không còn hệ số sử dụng đất, các quy định bắt buộc về mật độ dân số thì không rõ, điều này đặt ra những kẽ hở luật pháp khi thực hiện xây dựng các công trình cao tầng sau này.
Hiện nay, thực tế cho thấy hiện tượng “bùng nổ” xây dựng các tổ hợp cao tầng hỗn hợp tại khu vực trung tâm nội đô lịch sử các đô thị. Tuy vậy, đây là loại hình công trình quy mô lớn có mức độ tập trung người sử dụng cao (đặc biệt là tại các giờ cao điểm), là một trong những nguyên nhân gia tăng áp lực lên hệ thống hạ tầng giao thông đô thị. Hệ thống văn bản pháp luật, quy chuẩn – tiêu chuẩn còn chưa đề cập rõ các vấn đề trên. Do vậy cần có thêm các nghiên cứu tính toán quy định rõ các chỉ tiêu – tiêu chí với loại hình công trình cao tầng này.
Cần hoàn thiện hệ thống các tiêu chí – chỉ tiêu quản lý xây dựng công trình cao tầng nội đô trên cơ sở tính toán và định vị rõ khả năng chịu tải của hệ thống giao thông đô thị với từng khu vực cấp phép. Kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển đi trước cho thấy, quy định bắt buộc thực hiện nội dung Đánh giá tác động giao thông trong các quy trình quản lý cấp phép công trình cao tầng khu vực nội đô đã mang lại nhiều hiệu quả tích cực đối với sự phát triển ổn định và bền vững của đô thị./.
TS Lý Văn Vinh – Viện Kiến trúc Quốc gia
(Tạp chí Kiến trúc Việt Nam)
Giám đốc Sở Quy hoạch - Kiến trúc Hà Nội Lê Vinh cho biết, tính đến thời điểm hiện tại, UBND TP đã giao cho 20 đơn vị triển khai lập quy hoạch 29 chung cư cũ trên địa bàn TP, để đề xuất các cơ chế, chính sách thực hiện trong thời gian tới.
Theo đó, trong số 29 khu chung cư cũ đã có môt khu được quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 và giao chủ đầu tư; một khu đã được Sở Quy hoạch - Kiến trúc chấp thuận tổng mặt bằng và phương án kiến trúc công trình, sau khi nhà đầu tư đã báo cáo UBND TP; 05 khu đã được UBND TP chỉ đạo các Sở, ngành, tổ chức kêu gọi nhà đầu tư;
03 khu đang triển khai thực hiện nhiệm vụ quy hoạch đã được phê duyệt và đã cơ bản hoàn chỉnh đồ án quy hoạch; 16 khu chung cư cũ đã được Sở Quy hoạch - Kiến trúc, trong có một số khu đã được chấp thuận tổng mặt bằng và phương án kiến trúc; 03 khu cần tiếp tục triển khai lập thiết kế ý tưởng quy hoạch, làm cơ sở triển khai lập tổng mặt bằng hoặc lập nhiệm vụ và đồ án quy hoạch chi tiết, báo cáo UBND TP, làm cơ sở để triển khai các bước tiếp theo theo quy định.
Đối với các đồ án đã được UBND TP tổ chức họp để nghe báo cáo ý tưởng lần 2, UBND TP đề nghị các nhà đầu tư nghiên cứu, nâng cấp 02 phương án trình thẩm định và tham vấn ý kiến của Hội đồng Kiến trúc quy hoạch TP Hà Nội, tiếp thu hoàn chỉnh đồ án, phối hợp UBND các quận và phường có liên quan tổ chức trưng bày công khai phương án nghiên cứu quy hoạch kiến trúc đã hoàn chỉnh tại khu dân cư thuộc địa bàn khu chung cư cũ để cộng đồng dân cư xem và cho ý kiến.
Hiện nay, trên địa bàn TP Hà Nội có 1.579 nhà chung cư cũ được xây dựng từ năm 1960 đến 1992. Trong số này, có gần 1.000 chung cư thuộc khu vực hạn chế phát triển, quận Ba Đình có 211 nhà, quận Hoàn Kiếm 99, quận Đống Đa 415 và quận Hai Bà Trưng có 244. Qua đánh giá, xếp loại, thành phố đã lên kế hoạch cải tại, xây mới nhiều chung cư cũ nhưng tiến độ rất chậm do nhiều vướng mắc.
Sau khi Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2011, UBND TP Hà Nội đã giao các đơn vị tổ chức triển khai lập, trình phê duyệt các đồ án quy hoạch chung, quy hoạch phân khu đô thị, quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc chung cư.
Ông Lê Vinh cho biết thêm, từ nay đến hết năm 2018, Sở Quy hoạch - Kiến trúc Hà Nội sẽ tiếp tục hướng dẫn nhà đầu tư hoàn thiện ý tưởng các đồ án chung cư cũ để báo cáo UBND TP và xin ý kiến cộng đồng.
Nguồn: Kinhtedothi
Hà Nội đang chịu áp lực về việc cân bằng giữa phát triển hạ tầng giao thông với gia tăng dân số.
Do diện tích đất quy hoạch cho giao thông, đặc biệt ở khu vực lõi của Hà Nội không còn nhiều nên việc tích hợp quy hoạch và ứng dụng quản lý vận hành hệ thống hạ tầng giao thông bằng công nghệ có thể sẽ giải quyết hài hòa vấn đề này.
Quá tải
Theo Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam, hạ tầng giao thông Hà Nội đang phải "gồng mình" phục vụ trên 6 triệu phương tiện đăng ký trực tiếp tại TP và hàng triệu phương tiện giao thông vãng lai. Trong khi tốc độ phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ chỉ tăng khoảng 3%/năm, tỷ lệ quỹ đất dành cho phát triển giao thông chiếm khoảng 8,65% diện tích đất đô thị và hàng năm diện tích quỹ đất dành cho giao thông tăng chỉ khoảng 1%, đã tạo ra những áp lực lớn cho giao thông của Thủ đô.
Ông Đỗ Việt Chiến - Nguyên Cục trưởng Cục phát triển đô thị (Bộ Xây dựng) cho rằng, quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch giao thông chưa được đồng bộ với nhau; hệ thống giao thông công cộng phát triển còn chậm; các khu dân cư tập trung đông với nhiều nhà ở cao tầng là những nguyên nhân lớn nhất dẫn đến tình trạng quá tải về hạ tầng giao thông như hiện nay.
"Hà Nội đang hoàn thiện các tuyến đường sắt đô thị, chỉ cần hệ thống xe buýt đô thị hoạt động tốt thì có thể giải quyết được phần nào vấn đề quá tải hạ tầng giao thông." - KTS Nguyễn Đỗ Dũng – Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam
“Theo quy định thì 60% diện tích đất sẽ dành cho giao thông, đất công cộng, cây xanh và các loại khác, với việc “bùng nổ” dân số như hiện nay sẽ dẫn đến xu hướng tăng diện tích đất ở và làm mất cân bằng với phát triển hạ tầng giao thông. Ngoài ra, Hà Nội còn tồn tại thực tế là các bến xe lớn đang nằm trong trung tâm của TP, là những khu vực có mật độ dân số cao, tạo ra những áp lực lớn về giao thông” - ông Đỗ Việt Chiến khuyến cáo.
Tích hợp trong quy hoạch
KTS Nguyễn Đỗ Dũng – Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam cho biết, để làm tốt được công tác quản lý, vận hành hệ thống giao thông trong đô thị lõi, vấn đề quan trọng nhất là phải tích hợp quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch giao thông. Quy hoạch sử dụng đất có vai trò quan trọng trong việc thực hành quy hoạch giao thông, hay nói cách khác quy hoạch sử dụng đất chính là quy hoạch giao thông.
“Việc thay đổi mục đích sử dụng đất như hoán đổi từ nhà ở thấp tầng thành nhà ở cao tầng, dẫn đến nhu cầu đi lại trong hệ thống giao thông tăng, trong khi đó hệ thống giao thông vốn bị động chưa thể thay đổi ngay để đáp ứng với nhu cầu mới, kết quả là dẫn đến áp lực lên hạ tầng giao thông. Việc mở rộng đường sẽ làm tốn kém ngân sách và từ việc mở rộng đường sẽ làm cho mật độ xây dựng hai bên đường gia tăng hoặc chuyển nhà ở thành trung tâm thương mại sẽ lại làm gia tăng lưu lượng tham gia giao thông” - ông Nguyễn Đỗ Dũng phân tích.
Để giải quyết vấn đề giao thông trong đô thị lõi, ông Nguyễn Đỗ Dũng cho rằng không chỉ nên tập trung vào việc mở rộng đường, cách tiếp cận này có thể gây hiệu ứng tiêu cực. Không chỉ thay đổi về sử dụng đất mà tuyến đường mở rộng sẽ thu hút thêm lưu lượng giao thông do tâm lý di chuyển của người dân. Trên thế giới có những đô thị cổ hàng nghìn năm, nhưng một số đô thị đưa ra chính sách “không mở rộng giao thông đường bộ” để đầu tư vào hệ thống đường sắt và giao thông công cộng.
Để giải quyết được vấn đề này cần đa dạng các giải pháp giao thông, như bố trí các công trình công cộng trong bán kính đi bộ từ mọi gia đình, giảm mật độ tại khu vực có giao thông hạn chế, gia tăng các công trình công cộng tại khu vực nhà ga đường sắt, trạm xe buýt để người dân tích cực sử dụng phương tiện giao thông công cộng.
KTS. Nguyễn Đỗ Dũng cũng cho biết thêm, ngoài những giải pháp trên, Hà Nội cần phải xây dựng năng lực quy hoạch, thông qua việc đào tạo chuyên ngành về quy hoạch giao thông, thực tế ngành quy hoạch giao thông ở Việt Nam mới được hình thành chưa lâu. Việc đào tạo nhân lực nghiên cứu tích hợp quy hoạch đô thị trên nền quy hoạch giao thông hay xây dựng quy trình đánh giá tác động giao thông của các dự án sẽ là bước đi quan trọng để xây dựng năng lực quy hoạch giao thông.
Giám đốc Phát triển phân ngành giao thông FPT IS Nguyễn Toàn Thắng phân tích, bên cạnh những giải pháp về xây dựng hạ tầng, quy hoạch sử dụng đất gắn với phát triển hạ tầng giao thông thì hệ thống giao thông và an ninh công cộng cần phải được định hướng, thiết kế, xây dựng, triển khai và vận hành theo hướng tiếp cận tổng thể của một TP thông minh. Cách mạng công nghiệp 4.0 có tác động tích cực đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Xu hướng công nghệ sẽ giữ vai trò tiên phong trong quản lý và vận hành hệ thống giao thông thông minh tại những đô thị lớn như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Từ các công nghệ, giải pháp của cơ sở hạ tầng số kết nối được với cơ sở hạ tầng vật lý và môi trường thiên nhiên của đô thị sẽ giúp cho hệ thống được quản lý và vận hành một cách bền vững.
Nguồn: Kinhtedothi
Ths. KTS Đỗ Viết Chiến – Tổng thư ký Hiệp hội Bất động sản Việt Nam nhìn nhận, Bắc sông Hồng là vị trí “đẹp” hiếm hoi còn lại của Hà Nội, quy hoạch và kế hoạch vì thế phải song hành.
Về mặt lý thuyết, theo vị chuyên gia này, trên cơ sở quy hoạch phân khu 1/2000 đã có. Hà Nội cần lập danh mục cụ thể các dự án đầu tư phát triển đô thị theo 3 nhóm chính. Nhóm 1, dự án có khả năng thu hồi vốn và sinh lời (dự án nhà ở, khu Đô thị mới, văn phòng – khách sạn cho thuê, khu vui chơi giải trí có thu tiền…) nhất thiết tổ chức đấu thầu hoặc đấu giá quyền sử dụng đất. Thực hiện phương châm lấy đô thị nuôi đô thị từ giá trị kinh tế đất do Nhà nước trực tiếp làm thông qua thành lập các Tổng Công ty lớn có chức năng đầu tư hạ tầng kỹ thuật đô thị theo quy hoạch. Hạn chế tối đa chỉ định thầu, chuyển từ cơ chế khoán trắng cho nhà đầu tư được chỉ định thực hiện toàn bộ bước chuẩn bị đầu tư (từ khâu giải phóng mặt bằng, đầu tư hạ tầng kỹ thuật…) và chênh lệch địa tô. Sau khi đất đã đầu tư hạ tầng đương nhiên thuộc về nhà đầu tư.
“Nhóm 2, dự án không có khả năng thu hồi vốn và sinh lời: (công trình phúc lợi công cộng – khu vui chơi giải trí không thu tiền…) cần lập danh mục đưa vào kế hoạch sử dụng vốn đầu tư công. Nhóm cuối gồm dự án nhà nước và dân cùng làm (cho các khu vực làng xóm, dân cư đô thị hóa đã có) xác định rõ ràng nhà nước hỗ trợ lập quy hoạch chi tiết – đầu tư và kết nối hạ tầng kỹ thuật chính, còn lại các đầu tư khác xác định nhà nước và dân cùng làm để huy động các nguồn lực trong xã hội” – ông Chiến phân tích.
Trên cơ sở công khai các dự án nêu trên, Tổng thư ký Hiệp hội Bất động sản Việt Nam gợi ý, Nhà nước tạo điều kiện cho Hà Nội mạnh dạn đầu tư hạ tầng kỹ thuật khung hoặc thông qua các Tổng Công ty đầu tư hạ tầng kỹ thuật khu vực phát triển đô thị nhà nước đã thành lập (chuẩn bị quỹ đất sạch: đã giải phóng mặt bằng và có đầu tư hạ tầng kỹ thuật cho toàn bộ khu vực phát triển đô thị xác định) bằng các nguồn vốn vay lãi suất thấp, vốn huy động từ các chủ đầu tư trong khu vực phát triển đô thị đã được chọn và các nguồn vốn hợp pháp khác mục đích để tạo ra giá trị kinh tế đất (đất đã đầu tư hạ tầng).
“Từ đó suất đầu tư cụ thể cho từng m2 đất đã có hạ tầng. Đồng nghĩa, các chủ đầu tư được chọn nộp cho nhà nước phần kinh phí sử dụng đất có hạ tầng tùy theo quy mô dự án được giao tạo ra nguồn thu lớn cho nhà nước tiếp tục đầu tư cho các khu vực phát triển đô thị khác theo đúng quy hoạch, chương trình và kế hoạch phát triển đô thị đã được duyệt.” – ông Chiến khuyến nghị.
Được biết, UBND TP Hà Nội vừa phát đi thông tin đề nghị các đơn vị liên quan thực hiện đồng bộ các giải pháp để lập đề án xây dựng huyện Đông Anh lên quận vào năm 2020. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh không linh động bất cứ dự án nào đầu tư theo kiểu phong trào, không xuất phát từ nhu cầu và nguồn lực thực có của khu vực, dẫn đến lãng phí đất đai, mất cân đối cung cầu, thiếu kết nối hạ tầng nguy cơ phát triển không bền vững.
Theo định hướng Quy hoạch chung được duyệt, khu vực phía Bắc sông Hồng gồm: Khu vực Mê Linh – Đông Anh – Long Biên là địa bàn phát triển mới, hình thành các khu đô thị mới hiện đại và được xác định trong kế hoạch xây dựng đợt đầu của Thủ đô bởi lợi thế về vị trí, đất đai, cơ sở hạ tầng. Dự báo đến năm 2030, phía Bắc sông Hồng khoảng 1,7 triệu dân, Phía Nam sông Hồng ngưỡng 2,9 triệu dân. Trong đó có nội đô lịch sử (4 quận nội thành cũ xấp xỉ 80 vạn dân).
Nguồn: Kinhtedothi